1
Ngày xửa ngày xưa, khi các vị thần vẫn còn trẻ và Asgard mới được thành lập, có một mụ phù thủy đến từ bên rìa các thế giới. Mụ ta vô cùng hiểu biết về các câu thần chú cổ xưa, và đặc biệt có khả năng sử dụng seid, một phép thuật có thể khiến linh hồn rời khỏi thể xác và tiên đoán tương lai.
Phép thuật này vô cùng hấp dẫn với Odin, vị thần tối cao của tộc Aesir. Khi biết được về quyền năng này, thần Odin đã đề nghị trao đổi những hiểu biết về cổ ngữ runes với mụ phù thủy, đổi lại mụ sẽ truyền dạy cho Odin phép thuật seid.
Ban đầu, mụ rất lưỡng lự. Mụ đã nghe đủ chuyện về Odin nên đâm ra khá e ngại. Nhưng mụ cũng biết Odin sẽ không đời nào chia sẻ các bí mật một cách dễ dàng, điều này đồng nghĩa với việc phép thuật seid của mụ có giá trị rất lớn với lão. Vì thế nên mụ đã tạm quên đi nỗi nghi ngờ về vị thần chột mắt này và chấp nhận lời đề nghị.
Khi họ cùng nhau thực hiện seid, mụ phù thủy phát hiện mụ có thể đi xa hơn trước rất nhiều, và mụ đã tới một nơi còn tăm tối hơn cả thế giới thuở sơ khai. Nơi này khiến mụ cảm thấy sợ hãi, và những bí mật ẩn chứa ở đó vừa tuyệt diệu lại vừa đáng sợ, mụ không dám tiến vào sâu hơn – điều này khiến Odin không hề hài lòng, vì những bí ẩn mà lão muốn tìm kiếm đều được cất giấu ở đây, và có vẻ như chỉ có mụ mới có thể tìm thấy chúng.
Trong khi đó, mụ phù thủy cũng đồng thời truyền dạy phép thuật của mình cho đối thủ của thần tộc Aesir – tộc Vanir, cư trú tại Vanaheim, nơi mà mụ đã đi ngang qua trên đường đến Asgard. Tộc Vanir không thể nghĩ ra thứ gì khác ngoài vàng để trao thưởng cho mụ, dù mụ vốn cũng chẳng quan tâm đến điều đó.
Nhưng khi Odin phát hiện ra mụ vẫn thường xuyên di chuyển giữa Asgard và Vanaheim, lão đã ngay lập tức thấy được cơ hội. Lão đã thuyết phục cả thần tộc Aesir chống lại mụ phù thủy và gọi mụ là Gullveig, “kẻ-hám-vàng”.
Tộc Aesir đã phóng những cây giáo xuyên qua người mụ và thiêu cháy mụ ba lần, cả ba lần mụ đều tái sinh – vì mụ vốn đã tu luyện lâu năm, rất khó bị giết hại. Mụ mạnh hơn nhiều so với những gì mụ thể hiện. Mỗi lần mụ bị thiêu, Odin đều cố đẩy mụ xuống nơi tăm tối kia để tìm ra những gì lão muốn biết, và lần nào mụ cũng ra sức chống cự. Khi tộc Vanir biết được rằng tộc Aesir đang ngược đãi mụ phù thủy, họ vô cùng tức giận, và cuộc chiến đầu tiên trong vũ trụ đã nổ ra.
Lần thứ ba mụ tái sinh, Gullveig đã bỏ trốn, nhưng mụ đã bỏ lại một thứ: chính là trái tim bị giáo xuyên, vẫn đang cháy trên giàn thiêu.
Và đó là nơi hắn đã tìm thấy nó.
Một thời gian sau, hắn đã theo dấu mụ đến khu rừng sâu nhất và tăm tối nhất bên rìa Jotunheim: vùng đất của những người khổng lồ, kẻ thù không đội trời chung của tộc Aesir. Khu rừng này có tên là Rừng Thiết Mộc, những thân cây màu xám dày đặc đến mức chẳng có lối đi và cao đến mức có thể chắn hết ánh sáng mặt trời.
Hắn không cần mạo hiểm đi sâu vào rừng, vì dọc theo con sống chia cắt Rừng Thiết Mộc khỏi phần còn lại của Jotunheim, hắn đã tìm thấy mụ phù thủy, người đang nhìn chằm chằm qua dòng nước sang bên kia khu rừng rậm rạp và những rặng núi phía xa.
Mụ ngồi trên một chiếc chăn len xù xì, cuộn mình dưới lớp áo choàng dày cộp với chiếc mũ trùm kín đầu. Mặt trời đang chiếu sáng rực rỡ nhưng mụ lại ngồi trong bóng râm, hai tay khoanh lại trên đùi và dựa mình vào thân cây. Hắn quan sát mụ một lúc, đứng im tại chỗ, gãi gãi mũi, lắng nghe tiếng róc rách kỳ lạ của dòng sông và tiếng chim hót líu lo.
Rồi hắn thong dong tiến về phía mụ, tay đan sau lưng. Hắn chỉ có thể thấy nửa khuôn mặt phía dưới của mụ, nhưng làn da mụ trông rất hồng hào, mềm mại, như thể đang hồi sinh và còn rất tươi mới. Khi hắn đến gần hơn, hắn nhận thấy da tay mụ cũng như vậy. Trông mụ có vẻ đang nghỉ ngơi hết sức bình yên. Hắn có phần không muốn làm phiền.
Ngay sau đó, hắn tự thấy cái ý tưởng về sự bình yên này thật nhàm chán.
“Ngươi còn định đứng đó đến khi nào?” Mụ lên tiếng. Giọng nói của mụ khàn đặc như thể cả thế kỷ nay mụ chưa uống một giọt nước nào. Hắn tặc lưỡi cho rằng việc chìm trong biển khói của giàn thiêu những ba lần sẽ để lại hậu quả như vậy.
“Rất khó để tìm ra cô đấy,” hắn trả lời. Sự thật là, hắn cũng chẳng biết phải làm gì tiếp theo. Hắn đến để trao trả những gì mụ đã bỏ lại tại cung điện của Odin – và một điều gì đó mà hắn cũng không biết chính xác.
Có thứ gì đó đã thúc giục hắn đến Rừng Thiết Mộc vào ngày hôm đó cùng trái tim của mụ ở trong túi. Và hắn có một cảm giác rằng bất cứ thứ gì dẫn dắt hắn tới đây cũng sẽ rất quan trọng, rất đặc biệt, và rất thú vị, vì hắn vốn là một kẻ chóng chán.
Và giờ thì hắn đang ở đây, bị lôi kéo bởi một điều gì đó có vẻ sẽ rất kích động và hy vọng rằng mụ phù thủy sẽ không khiến hắn thất vọng.
BAN ĐẦU, mụ không trả lời, thay vào đó, mụ quan sát kỹ càng kẻ lạ mặt đã tiếp cận mình. Mặt trời vẫn đang chiếu sáng phía sau lưng hắn, nên mụ cũng không thể nhìn rõ khuôn mặt hắn – chỉ thấy chiếc áo choàng dài màu lục có mũ, chiếc quần nâu, đôi giày da cũng màu nâu, và một bóng hình với mái tóc rối lộn xộn.
“Ta thật sự ngưỡng mộ cô đấy,” hắn thoải mái nói. “Cô biết đấy... gây náo loạn tại bất cứ nơi nào cô đến. Khiến các chư thần phải tranh đấu vì phép thuật của cô. Vô cùng ấn tượng.”
Một lúc sau mụ mới nói, “Đó không phải ý định của ta.”
“Vậy rốt cuộc cô tính làm gì?”
Mụ không trả lời.
“Chà, nếu cô lại tiếp tục làm những điều đó,” hắn nói, “ta sẽ rất hứng thú được xem, và thậm chí còn tham gia cùng ấy chứ, miễn là không bị tóm. Nhưng ta cũng phải nói trước với cô rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào, ta cũng sẽ không vạ miệng hứa suông những điều sẽ cản chân ta. Vốn ta cũng thường không thẳng thắn về mấy chuyện này, nên coi như là cô may mắn đi. Ta cho cô biết vì ta coi cô là bạn.”
“Bạn của ngươi?” Một khái niệm thật xa lạ với mụ.
“Đúng vậy. Ta vừa quyết định xong đấy.” Hắn nghiêng đầu. “Ta là người bạn đầu tiên của cô sao? Đúng là một thành tựu lớn cho cô đấy.”
Mụ ngó lơ câu hỏi này. “Xem ra chỉ là ngươi đơn phương quyết định.”
“Có vẻ cô không có nhiều người hâm mộ lắm.” Hắn quan sát mụ. “Với ta, cô giống như một mụ phù thủy vô hại ở bìa rừng – rất lâu rồi ta chưa từng thấy ai nói chuyện như cô. Ta ngạc nhiên là đám chư thần Aesir hiểu được ngữ điệu này. Cô là ai? Và cô đến từ đâu?”
“Ta không biết,” mụ chần chừ một lúc mới trả lời. Mụ nghiêng đầu để có thể thấy hắn, nhưng từ nơi hắn đứng thì khó mà thấy rõ mặt mụ. “Ta cũng có thể hỏi ngươi chính xác những điều này, và có lẽ ngươi cũng chẳng biết câu trả lời.”
“Ồ, thật sao?” Hắn khoanh chân ngồi xuống và nhìn mụ chằm chằm.
Lúc này mụ có thể thấy hắn có một khuôn mặt góc cạnh nhưng nhợt nhạt, với chiếc mũi hơi hếch khiến hắn có một vẻ ngoài tinh quái, mái tóc hơi xoăn vàng sẫm dài ngang vai. Đôi mắt xanh lục, nụ cười ranh mãnh.
Mụ phù thủy gật đầu như trả lời.
Nụ cười của hắn bỗng cứng lại. “Và làm sao cô lại biết được điều đó?”
“Ta biết được nhiều thứ,” mụ nói. “Có thể ngươi cũng từng nghe.”
“Có lẽ ta từng nghe được rằng những thứ cô biết đã khiến cô bị đâm rồi bị đốt cháy trên giàn thiêu, nhiều lần. Từ giờ trở đi có lẽ cô nên tỏ ra ngu ngốc thì hơn.”
“Đó không phải chuyện vui gì,” mụ nói, nửa đùa nửa thật, bàn tay mụ di chuyển dọc theo vết chém giữa ngực – nơi chúng đã đâm thẳng vào trái tim mụ.
“Chính là như vậy!” Hắn cười rộ lên khi lục tung túi xách của mình. Một lúc sau, hắn lôi ra tấm vải bọc và đưa cho mụ.
Mụ nhận lấy và bắt đầu cảm nhận được từng nhịp đập trên tay mình.
“Trái tim của cô,” hắn giải thích. “Suýt thì ta đã ăn nó rồi, vì một vài lý do, nhưng rồi ta lại nghĩ rằng có thể cô nên nhận lại nó.”
“Ăn tim ta?” Mụ ngạc nhiên hỏi. “Tại sao?”
Hắn nhún vai. “Ta cũng chẳng biết. Để xem chuyện gì sẽ xảy ra.”
“Ngươi có thể ăn trái tim của một phù thủy, nhưng điều đó chẳng mang lại lợi ích gì đâu,” mụ nói một cách khô khan rồi nhíu mày khi mở cái bọc ra. “Có vẻ như nó đã hồi phục một chút. Nhưng...”
“Nhưng vẫn còn một lỗ hổng ở trên đó,” hắn hoàn thành câu nói giúp mụ. “Cô đã bị đâm mà. Có lẽ nó sẽ hoàn toàn lành lại nếu cô đặt nó trở về vị trí cũ. Làm đi, ta sẽ không nhìn.”
“Nó có thể đợi.” Mụ gấp tấm vải bọc lại như cũ và nhìn thẳng vào hắn. “Cám ơn.”
“Không có gì.” Hắn lại ngồi xuống, duỗi một chân ra, và chống khuỷu tay lên đùi còn lại. “Vậy thì, ta cho rằng cô không còn là Gullveig nữa. Giờ thì họ gọi cô là gì?”
“Ta cũng không chắc.” Mụ liếc nhìn hắn đang vặt một ngọn cỏ trên mặt đất, nhét vào miệng, và để nó treo lơ lửng ở đó, và mụ cũng thấy những đốm tàn nhang trên mũi và má hắn, cũng như ánh sáng mặt trời phía sau bao phủ lên người hắn tạo nên một đường cong màu cam chói lóa.
Mụ vẫn không chắc phải nghĩ như thế nào về gã đàn ông lạ mặt này. Thật khó để quyết định mụ nên kể cho hắn ta đến đâu.
“Cô không biết tên thật của mình?” Hắn nhướn mày hỏi.
Mụ nhún vai. “Ta bôn ba khắp mọi nơi, và ở mỗi nơi, họ sẽ gọi ta bằng những cái tên khác nhau.” Mụ đưa mắt qua bờ sông phía bên kia, phía khu rừng toàn những cây gỗ lim màu xám. “Nhưng có lẽ ta sẽ nghỉ ngơi ở đây một thời gian, ta vẫn đang cân nhắc.”
“Vậy thì cô sẽ tự gọi mình là gì, nếu ở lại đây?”
Mụ đắn đo một lúc trước khi trả lời, “Angrboda.”
Hắn chun mũi lại, và ngọn cỏ rơi khỏi miệng. “Gì cơ? Kẻ gieo rắc khổ đau? Một cái tên kỳ cục. Ai còn muốn làm bạn với cô nếu đó là điều duy nhất cô có thể làm?”
“Ngươi là kẻ tự quyết định chúng ta là bạn,” mụ nói. “Hơn nữa, ta cũng chẳng mang đau khổ đến cho ngươi đâu.”
“Phù thủy nào cũng khó hiểu như cô à?”
“Ta không biết mình đã từng gặp các phù thủy khác chưa, dù có một vài người cũng từng sống trong những khu rừng, rất lâu về trước.” Mụ lại đưa mắt sang bờ sông bên kia và hạ giọng nói gần như cung kính. “Họ nói rằng có một phù thủy đã cưu mang những con chó sói đuổi theo mặt trời và mặt trăng, và còn nuôi dưỡng rất nhiều con sói khác.”
“Đúng vậy. Ta nghe suốt mấy chuyện này lúc lớn lên. Mụ phù thủy già và đàn con sói.”
“Ngươi nghe được từ Asgard?”
“Ta không đến từ Asgard. Dù sao thì ai mà chẳng biết mấy chuyện đó.”
“Ngươi là một người khổng lồ,” mụ nói. Dù chỉ đang phỏng đoán, nhưng mụ nói một cách chắc nịch như khẳng định. “Người khổng lồ” là một khái niệm vẫn thường bị hiểu sai: đó là một cái tên, chứ không phải từ để mô tả, cho những người khổng lồ vốn không to lớn hơn người bình thường là bao. Và trong khi vị khách vãng lai này ăn vận giống hệt những vị thần Aesir khác, không có cách nào có thể phân biệt một vị thần với một người khổng lồ bằng mắt thường.
Nhưng gã khổng lồ này di chuyển một mình, lại không cải trang... Có điều gì đó hoang dại ở hắn, đôi mắt hắn như ánh lên vẻ tăm tối của những khu rừng sâu giữa những đêm hè. Một vẻ gì đó chưa được thuần hóa, cũng chưa được bộc lộ hết.
Hắn không thể là một vị thần được, đúng không?
Hắn nhún vai trước những suy diễn trong đầu mụ. “Gần như là vậy. Dù sao thì, quanh đây có vẻ trống trải. Không có sói... cũng chẳng có mẹ phù thủy...”
“Đúng vậy.” Mụ lại nhìn phía bên kia sông, cảm nhận một cơn đau nhói trong lồng ngực trống rỗng. “Nhưng có thể đó chính là ta. Ta là mẹ của chúng.”
“Cô không nhớ gì, đúng không?”
Mụ lắc đầu. “Không.”
Một thoáng im lặng bao trùm lấy họ, và hắn rời tầm mắt đi chỗ khác. Mụ có cảm giác hắn không thích không khí chùng xuống của cuộc hội thoại; hắn có vẻ là một người thích nghe giọng nói của chính mình.
Cuối cùng hắn cũng nói, “Dù sao thì ta cũng phải cho có biết rằng ta sẽ làm những gì ta muốn và bỏ qua mọi lời tiên tri u ám của cô.”
“Ngươi không thể phớt lờ những lời tiên tri.”
“Có thể nếu cố gắng thôi.”
“Ta không chắc sẽ hiệu nghiệm.”
“Hừm.” Hắn choàng tay qua đầu, dựa vào thân cây, và nói một cách ngạo nghễ, “Có lẽ cô không thông minh bằng ta rồi.”
Mụ liếc nhìn hắn đầy thích thú. “Vậy họ gọi ngươi là gì, hả Kẻ Xảo Trá?”
“Ta sẽ cho cô biết nếu cô để ta thấy mặt.”
“Ta sẽ cho ngươi thấy nếu ngươi hứa sẽ không giật mình vì sợ hãi.”
“Ta đã nói là sẽ cho cô biết tên ta. Ta sẽ không hứa thêm điều gì. Nhưng tin ta đi, ta không sợ gì đâu, lúc trước ta còn định ăn trái tim của cô nữa kìa.”
“Trái tim ta không phải chỉ chứa toàn những điều thấp hèn đâu, ta đảm bảo đấy.” Sau đó, mụ kéo mũ xuống, để lộ ra đôi mắt lục lam nặng trĩu và mái tóc cháy sém với chân tóc màu nâu lởm chởm. Đây vốn không phải màu sắc ban đầu của Gullveig, nhưng Angrboda nhận ra rằng mụ nên quên đi cái tên đó cũng như tất cả những chuyện trước đây và không bao giờ nhắc lại.
Đây là một khởi đầu mới cho sự tồn tại của mụ. Mụ sẽ giữ lại phần phù thủy cho riêng mình từ bây giờ, không để ai biết. Không còn seid, không còn những lời tiên tri, không còn vướng vào những rắc rối. Mụ đã chịu đựng quá đủ trong suốt mấy kiếp đời.
“Vậy mà ta cứ tưởng là có một con ác quỷ gớm ghiếc ẩn náu dưới lớp mũ đó.” Hắn xoắn hai bàn tay lại như một bộ móng vuốt. “Nàng Khổng Lồ Angrboda, xấu xí đến mức toàn bộ đàn ông đều kinh hoàng chạy mất khi thấy mặt nàng.”
Mụ chớp mắt. “Vậy tên của ngươi là gì? Hay là ngươi định không giữ lời hứa?”
“Ta chẳng làm thế đâu. Ta là một người đàn ông giữ chữ tín, Angrboda. Ta chính là anh em kết nghĩa của Odin,” hắn đầy nhiệt huyết nói và còn đặt tay lên ngực.
À, ra vậy, mụ nghĩ. Mụ không nhớ Odin có một người anh em là người khổng lồ khi ở Asgard. Nhưng dù sao thì cũng đã hàng thế kỷ trước rồi, mụ nhớ được rất ít về quãng thời gian ở Asgard và hầu như chẳng còn ký ức gì về khoảng thời gian trước đó. Có lẽ vị khách lạ mặt này còn chẳng có mặt ở đó khi mụ bị thiêu cháy.
Hoặc có thể hắn ta đã ở đó quan sát, một cách chăm chú. Giống tất cả những kẻ khác.
“Và ta không tin được,” hắn tiếp tục, “rằng cô sẽ bôi nhọ danh tiếng của ta bằng cách ám chỉ ta là một kẻ không giữ lời hứa”.
“Ít nhất ta cũng cần biết tên ngươi để còn bôi nhọ chứ, đúng không?”
“Cô đang có ý bôi nhọ cái tên danh tiếng của ta.”
“Bôi nhọ cái tên của nhà ngươi, hay bôi nhọ việc nó là một cái tên danh tiếng?”
Hắn nháy mắt với mụ và ra hiệu như thể đang nói Ồ.
“Ta sẽ tự đặt cho ngươi một cái tên nếu ngươi không nói cho ta biết,” mụ nói.
“Chà, thú vị đây.” Hắn ôm lấy đùi như một đứa trẻ đang vô cùng thích thú. “Cô đang nghĩ đến cái tên như thế nào?”
“Đảm bảo ngươi sẽ chẳng thích đâu. Ta sẽ gọi ngươi bằng cái tên tồi tệ nhất ta có thể nghĩ đến, và sử dụng phép thuật của ta để khiến tất cả mọi người đều sẽ gọi ngươi bằng cái tên đó.”
“Phép thuật của cô? Chà, thật đáng sợ.”
“Đừng bắt ta phải khiến ngươi ăn thứ này,” Angrboda cảnh báo, giơ lên cái bọc đựng trái tim mình.
“Hừm, ta nên làm việc đó ngay từ đầu.” Hắn ngồi thẳng dậy, đầy giễu cợt nhìn mụ như thể đang nhìn con mồi của mình. “Có lẽ ta sẽ chiếm được toàn bộ sức mạnh của cô. Trả lại đây.”
Mụ đưa cái bọc tránh xa khỏi tầm tay hắn khi hắn cố với lấy, và cất giọng ái ngại, “Hoặc sẽ có những thứ tồi tệ xảy đến với ngươi.”
“Làm sao cô biết?”
“Ta không biết. Ta chỉ nói vậy thôi.”
“Vậy thì ta không thể trách cô vì vẫn muốn dính lấy nó sau tất cả những gì đã xảy ra.”
“Ta chắc chắn sẽ không rời xa nó nữa.”
Mụ đặt lại trái tim lên đùi và nhìn nó chằm chằm. Không bao giờ.
Một lúc sau, khi mụ ngước lên nhìn hắn, hắn nở một nụ cười xảo trá. Mụ ngập ngừng nở nụ cười đáp lễ – mụ cũng không biết nụ cười của mình lúc này trông như thế nào, là kỳ cục, bất thường, hay đơn giản chỉ là đáng sợ.
Nhưng nụ cười của hắn ngày một rạng rỡ, đánh bật hết mọi ý nghĩ khác.
“Tên ta,” hắn nói, “là Loki Laufeyjarson.”
“Ngươi theo họ mẹ chứ không theo họ cha?” Mụ hỏi, vì Laufey vốn là tên phái nữ.
“Đúng vậy. Mà nói thật thì ta không thể tin nổi là cô không biết ta, nhất là khi cô đã từng sống ở Asgard. Đám chư thần lúc nào cũng quá nghiêm túc, nhiều lúc thật nhàm chán, nên ta thường có xu hướng tự giải trí cho bản thân để khiến thế giới thú vị hơn – chủ yếu là với sự hy sinh của những người khác, nhưng đó là điều tất yếu. Bọn họ cũng đâu thể làm gì vì dẫu sao ta cũng là người thông minh nhất giữa đám chư thần.”
“Và rõ ràng cũng là người khiêm tốn nhất,” Angrboda quan sát hẳn, với sự thờ ơ trên khuôn mặt nghiêm nghị.
Loki quan sát mụ một lúc để xem có phải mụ đang đùa không. Nhận thấy nét mặt mụ không hề thay đổi, nụ cười gượng gạo của hắn bỗng trở nên rạng rỡ đầy cảm kích.
“Cô biết không, Angrboda,” hắn nói, “ta nghĩ chúng ta sẽ trở thành những người bạn tốt của nhau.”