Chắp cánh
Mang theo niềm hy vọng của mẹ cậu thanh niên truyền tin mà tôi ít thân thiết nhất, tôi đứng ngay cổng lớn thành trì để nhấn chìm mình trong ánh sáng. Hai tên nguyên thú canh giữ đang nhìn tôi bằng đôi mắt vàng khè bao trọn, chẳng thấy lòng trắng đâu, một con liếc sang dãy núi Trường Ngọc, hắn thở dài bù cho công việc nhàn rỗi. Đến lúc này thì tôi đã tính cất bước, nhưng chợt một âm thành phía trái vọng tới, cảm tưởng như có thứ gì đó đâm mạnh vào tòa thành, là quái vật phương nào? Tôi ngước lên bức tường, một tên sư tử hối hả ngồi dậy hoặc đứng đó từ đầu, tôi không rõ, tôi chỉ biết hắn có cầm một cái tù và, thổi một hơi vang trời.
“Quân kháng chiến!”
Tôi theo phản xạ, như đa phần những người dân ở đây, vừa nghe tiếng thổi cũng đủ hiểu rồi chạy thẳng vào nhà, tôi thì không có, nhưng tôi nghĩ tới một người, may thay cậu ta ở hướng phải của thành trì. Dùng cái thân xác già cỗi, tôi chạy liền tới nhà cậu, nơi cửa nhà, cậu đã ra ngoài ngó quanh. Thả tay vào vai cậu làm chỗ dựa, tôi thở hổn hển không nghe rõ cậu nói gì.
“Là quân hướng Bắc, không phải của lão Đại.” Cậu đỡ tôi vào trong và rót một cốc nước.
Mặc kệ cặn bã, tôi nốc cạn, bóp chặt cốc trên tay, miệng chạy ròng hai hàng thấm vào da tôi. “Ở đây sẽ ổn chứ?”
“Nếu họ thắng, ta sẽ bị kiểm tra, nếu họ thua, ta cũng bị kiểm tra, chi bằng ông về trước đi.” Cậu nhận lại cốc nước, kế bên có thanh kiếm trong bao.
“Tôi phải xem trận chiến này.” Một âm thanh chen vào lời nói của tôi, có vẻ cục đá nào đó đang làm rung chuyển tường thành.
“Quân Bắc có nhiều vũ khí tốt, công thành là sở trường, thời điểm cũng thích hợp.” Nét mặt cậu pha trộn vẻ ăn mừng với lạc quan.
“Cậu chắc chứ?” Còn tôi, lo toan không hiện ra nhưng nghi ngờ bao phủ đôi mắt than hồng.
“Ý ông là sao? Hạ Sơn ít quân, đã hòa bình lâu, dễ gì qua nổi.” Cậu đổi vẻ ăn mừng sang suy luận.
“Tôi biết hướng Bắc có một tướng quân mưu mô, nhưng hội những nguyên thú chọn lọc từ các nhánh với các chi thông minh nhất, không phải hạng tầm thường.” Nếu dọn cơm ra bây giờ, chúng tôi sẽ giống như ăn cơm nhà bàn chuyện chính trị vậy. “Cứ nghĩ về lý do bỏ trống Hạ Sơn, một thành trì cột mốc xem?”
“Chỉ vì quân kháng chiến không đánh thôi mà.” Thêm một tiếng động lớn sau lời nói của cậu.
“Tôi không rõ chuyện chiến thuật, nhưng linh cảm của người trong nội bộ chúng mắc bảo tôi.” Cũng nhờ linh cảm, tôi thấy rằng cậu sắp thôi chuyện và rời đi xem tình hình, nên lấy từ hành lý thanh kiếm của mình ra.
Không nói nhiều, cả hai chúng tôi lao tới gần cổng thành trì, nơi có những tiếng kim loại va chạm vào nhau. Từ đó cậu men theo dòng người kháng chiến, gia nhập cùng họ như một nô lệ nổi dậy, hành động ấy đơn giản tới nỗi tôi ngỡ ngàng nhìn dòng người đánh chiếm mọi thứ. Cho tới nay tôi toàn chứng kiến tàn cuộc, ít khi thấy một đội quân là như thế nào. Chẳng bao lâu cổng thành đã bị phá tan nát, bọn sư tử tháo chạy, những thanh kiếm đưa lên theo hàng, cứ như có đủ con mồi cho chúng nên không cần phải chen lấn.
Tôi lén vào trong thành, tìm những người dân còn lại, khi cái bóng vút qua đầu tôi, đội không kích của giặc đang xuất kích, mặc kệ chúng, tôi chỉ lo tìm cách giúp đỡ đồng bào. Một vài binh lính kháng chiến thấy thế liền chạy tới phụ, mồ hôi chảy xuống má anh lính, anh lôi mấy đứa trẻ lên, thanh kiếm anh đưa sang phải để không lỡ tay làm bị thương ai cả.
Đứng giữa trận chiến, tấm thân tôi cháy rụi, tòa nhà sau lưng tôi tỏa ra hơi nóng đau đớn, đài rửa mặt đã thấm máu kẻ thù, nó cũng bốc lửa. Có thể thấy, dưới dòng nước đỏ thẫm, một nguyên thú nhánh chim, mình đầy lông vũ đang hấp hối ục ực, đôi cánh hắn, mũi tên xuyên qua đôi cánh hắn.
“Xung phong!”
Cuối cùng tôi đã hiểu, đứng giữa cuộc chiến là như thế nào, là máu nhuộm, là trời cười, là những tiếng kim loại, là thanh kiếm chiến thắng đang được trao cho bên xứng đáng. Dường như tôi quên sạch những ý nghĩ về chính trị và cái chiến thuật của bọn thú vật, chỉ còn đọng lại thứ cảm giác cồn cào. Tôi cầm cáng kiếm nhưng không nhắc nó lên, bởi cơ thể tôi cứng đơ và sợ hãi, với tác dụng phụ mang tên hào hùng. Đôi mắt tôi lượm nhặt tất cả để một mai tôi kể cho con cháu mình dù tôi biết chắc ông già này chẳng thèm lấy vợ.
“Giết hết chúng!”
Tôi lượm được cái xác một con chó sói rừng đang rơi xuống từ tường thành, do cú đá của chiến binh nhân loại, tìm thấy cây gậy mà người dân như chàng đưa thư lúc nãy, hòa vào binh lính và dùng nó đánh đuổi giặc Bắc. Đằng kia, lưỡi gươm của binh lính cắt lìa cánh tay giặc. Ở nơi này không có súng, chỉ có cung tên, chỉ có thanh kiếm làm vội đầy thiếu thốn và vũ khí tốt nhất sẽ là giáo. Nhưng trong cõi lòng tôi hát mãi khúc ca của thanh kiếm, thứ đã trở thành biểu tượng cho chiến tranh cả ngàn đời nay.
Đi ngang qua những thanh kiếm, tôi tò mò rằng ai sẽ chém tôi, không có câu trả lời, tôi cứ đi tiếp, vì tôi vô định. Âm thanh là thứ duy nhất lay chuyển được cái thần hóa của tôi lúc này, bên trái, một nhát chém vào lớp lông cứng, bên phải, tiếng hò reo khích lệ tinh thần, trước mặt, lời cảm ơn của người dân, sau lưng, ngọn lửa hừng hực thiêu cháy ngôi nhà.
Cứ tưởng tôi sẽ mãi như thế đến khi mọi thứ kết thúc, ấy vậy mà lại có người kéo được tôi ra khỏi sự mộng mơ sợ hãi của mình. Đó là một phù thủy? Tôi chẳng rõ cách gọi những người có phép thuật ở đây ra sao, và trước mắt tôi là thần tượng mới của cuộc đời chăng? Cô ấy không mang gậy phép, chỉ dùng bàn tay điêu luyện với những cột nước bắn thẳng vào kẻ thù, vừa nhanh nhẹn vừa dứt khoát, cũng không mang lại cho tôi cảm giác cô ấy điều khiển dòng nước mà là tạo ra. Cô gái ma thuật này vẫn còn trẻ tuổi nhưng dường như là lý do để quân kháng chiến tiến công, còn tôi thì cảm thấy mình quá đáng trong tâm hồn vì vội vàng kết luận cô ấy giống phù thủy. Do đó tôi phải quan sát lại một lần nữa cách cô ấy sử dụng thanh kiếm nhịp nhàng với mái tóc đuôi ngựa, cô là thiếu nữ Việt Nam chuẩn mực nhất tôi từng gặp.
Hòa hợp cùng dòng nước được tạo ra, bàn tay cô chuyển hướng, cô đang nấu ăn chứ chẳng phải đánh giặc, nhưng đừng vì thế mà nghĩ cô đánh chậm, đánh yếu, ngược lại, từng dòng nước là từng nhát dao cứa vào da thịt kẻ thù. Và tôi mang đôi mắt tròn mắt dẹt, ngỡ ngàng trước một nữ chiến binh - theo như tôi thấy, quân kháng chiến không có lấy người đàn bà nào - rồi giờ thì câu nói “giặc tới nhà, đàn bà cũng đánh” rất linh nghiệm. Tiếc thay, đây là chiến trường, và chiến trường thì không được đứng yên, tôi đã lạc mất người sư phụ tương lai chỉ trong phút chốc, chả còn thấy bóng người ở đó, tôi tiếp tục vô định. Có lẽ tôi lúc này trông rất tệ, đúng, lão già này chẳng làm được gì do lão đang đứng giữa hỗn loạn, mà để đứng giữ hỗn loạn, lão chắc chắn không tầm thường.
Đợi một lúc, khi thành trì đã bị chiếm dễ dàng, cảnh tưởng vẫn thế dù thiếu bọn nguyên thú, tôi chợt nhận ra cuộc chiến diễn ra khá nhanh hoặc do tôi tưởng tượng, vì trăng đã lên cao, và thời gian đã trôi qua hơn năm tiếng. Tôi cứ bước đi, tới ngôi nhà của mẹ cậu Vọng Nguyên, hóa ra bà ấy trốn trong nhà suốt và chẳng hề bị gì, yên tâm một phần, tôi lại tới cổng thành. Lần này là màn đêm chiếm giữ tôi, giày tôi dẫm lên dấu chân binh lính, sau một hơi thở dài, tôi cắm thanh kiếm mình được tặng xuống đất. Ngắm nhìn quân kháng chiến đang dập lửa và phổ biến vài thứ cho người dân, tôi mỉm cười rồi rời đi, bỏ lại thanh kiếm nhưng mang theo “đôi cánh”.