Chương 1
Hòa sống trong một căn nhà ở ngoại ô thành phố X. Nói là nhà nhưng thực chất đó là túp lều chỉ đủ che mưa tránh nắng. Không gian bên trong chật hẹp. Vài cái bát, vài chiếc tách đựng trà được làm bằng sành không còn nguyên vẹn. Chiếc giường xập xệ kê sát cửa sổ bị gãy mất hai song sắt. Nến chất đầy trên đầu tủ. Hòa đốt nến vào ban đêm thay cho ánh đèn neon rực rỡ nơi chốn đô thành. Sáp nến nhỏ thành giọt đông cứng như những tảng băng màu đỏ. Mùa hè quá nóng còn mùa đông thì lại quá lạnh.
Cạnh bên túp lều rách nát của Hòa là những ngôi nhà tranh nhỏ bé nằm rải rác của những người thợ đóng giày, thợ mộc rồi các cửa tiệm: tiệm đồng hồ, tiệm thuốc lá và hiệu sách cổ điển. Phía sau lều là một bức tường thành bằng đất cũ kỹ. Dưới chân tường, những bụi hoa dại cùng sơn trà mọc lấm tấm. Vào mùa đông, từ bên trong lùm cây um tùm, côn trùng kêu hoài không nghỉ khiến Hoà chẳng ngủ được. Những lúc như vậy, anh thường đốt đèn cầy lên, thức trắng đêm và suy nghĩ. Anh tự hỏi mình là con người, họ cũng là con người nhưng tại sao anh cứ mãi nghèo đói quanh năm đến cả tiền để mua một cốc rượu uống cho ấm bụng vào ngày đông giá rét cũng chẳng có.
Hòa kiếm sống bằng nghề quét dọn trong xưởng kim hoàn Thanh Nguyên cách nơi anh ở mấy trăm mét. Anh đi làm từ sáng sớm khi ánh dương còn chưa ló rạng đến tối mịt khi cả trăng và sao đều đã yên ngủ trong các vầng mây, mà lương cũng chỉ dăm ba đồng. Những buổi tối rảnh rỗi, anh đi trên vỉa hè bước dưới những tòa cao ốc thắp điện sáng choang. Anh ngước nhìn và thầm ao ước giá như mình được một lần sống trong những căn biệt thự đó.
Hòa gầy gò, người đen nhẻm, mái tóc lúc nào cũng rối xù như tổ quạ. Dù chỉ hai mươi mấy tuổi nhưng với bộ áo quần luộm thuộm cùng mớ râu chưa kịp cạo, trông anh già đi rất nhiều so với tuổi thật. Trước đây, Hòa từng được sống trong những ngày sung sướng được ba mẹ yêu thương, không cần phải lo đến chuyện cơm áo gạo tiền. Rồi quãng thời niên thiếu êm đềm ấy vụt qua rất nhanh như sao băng trên trời, chưa kịp ước nguyện đã vội lụi tàn. Mẹ Hòa mất bởi một cơn bạo bệnh, ba anh đi thêm bước nữa. Chính người mẹ kế đã đẩy anh vào những ngày tháng khốn khó. Còn ba anh, một người đàn ông nhu nhược, chỉ biết nghe theo vợ. Không chịu nổi sự ngược đãi của người mẹ kế, Hòa bỏ nhà đi khi chưa đầy mười tám. Kỷ vật duy nhất mà anh mang theo khi đi chính là bức ảnh gia đình anh chụp cùng với ba mẹ của mình.
Công việc hằng ngày của Hòa là quét dọn trong xưởng kim hoàn. Có lẽ anh là người tốt bụng duy nhất còn sót lại trên thế gian khi nhìn những món đồ trang sức bằng vàng lấp lánh mà không nổi lòng ham muốn. Tất nhiên anh cũng muốn có nó. Nếu đánh cắp một món đồ trong xưởng và bán đi, anh sẽ có cả khối tiền, cuộc sống sẽ thôi chật vật nhưng anh không làm vậy, đơn giản rằng vì anh không có lòng tham.
Chủ xưởng là một người đàn ông đã ly dị vợ từ hai năm trước. Kẻ Nam người Bắc. Cô con gái duy nhất của họ tên Thanh Nguyên sống với mẹ tận phương Bắc xa xôi đã nhiều năm không hiểu sao hôm nay lại đòi vào trong Nam, nói thế nào cũng không nghe. Nguyên chỉ mới mười ba tuổi, một mình đi tàu lửa, ông không yên tâm nên đã nhờ Hòa ra Bắc đón con bé. Thấy Hòa chăm chỉ lại thật thà nên ông tin tưởng anh hơn nữa ông bận một số việc không đi được, dĩ nhiên lộ phí đường đi, ông lo tất cả.
Khí hậu phương Bắc lạnh thấu xương. Vừa bước xuống tàu, Hòa chợt rùng mình vì lạnh. Cơn gió ập đến cuốn phăng chiếc mũ len anh đội trên đầu. Anh phải dành dụm rất lâu mới mua được nó vì thế anh đã đuổi theo lấy lại. Chiếc mũ nằm ngay dưới chân của một chiếc ghế đá. Trên ghế có một cô gái nhỏ nhắn đang ngồi. Cô gái lọt thỏm trong chiếc áo ấm dày cộm. Anh ngờ ngợ, cho tay vào túi lấy ra một bức ảnh rồi nhìn cô gái. Anh khẳng định cô bé ấy chắc chắn là Nguyên. Chủ xưởng cũng đã kể cho anh nghe nhiều về cô con gái của ông. Nhưng Nguyên có vẻ khó tiếp xúc. Anh chào hỏi, tự giới thiệu về mình bằng giọng điệu vui tươi, con bé vẫn im thin thít. Nét mặt lạnh như băng.
Trên đường về, Nguyên suốt buổi im lặng, thậm chí nhìn cảnh vật bên ngoài cửa sổ trong làn gió se sắt, Nguyên cũng không nở nụ cười nào. Hòa chiều chuộng cô bé hết mực. Anh hiểu rằng sở dĩ Nguyên cứ lầm lì là vì anh quá nhàm chán. Mà một người khô khan, làm việc quần quật như anh thì lấy đâu ra sự lãng mạn hay tạo tiếng cười cho Nguyên? Ngay cả khi anh kể chuyện cười, anh cũng thấy những câu chuyện đó sao mà tẻ nhạt và buồn chán. Anh khiến con bé vui bằng cách nào đây? Đọc sách hay hát cho nó nghe những câu hát anh tự biến tấu?
Đoàn tàu vừa chạy ngang qua một con sông. Bóng hoàng hôn đỏ sẫm in xuống dòng nước trong vắt. Những gợn sóng nhỏ lăn tăn, những nhánh lá lay động bởi ngọn gió thổi tới từ đằng đông. Những hành khách trên toa tàu của Hòa đều đã ngủ say. Nguyên như pho tượng hoàn mỹ thời cổ đại, ngồi im mà không hé môi. Anh đoán con bé trầm ngâm suy tư về một vấn đề nào đấy, ở lứa tuổi này sao? Thật nực cười. Càng lúc anh càng thấy vẻ băn khoăn trên gương mặt Nguyên. Không thể cứ mãi im lặng như vậy, anh bèn kể về cuộc đời mình cho nó nghe. Những câu từ đứt quãng. Những lời văn không mạch lạc. Anh nhớ rõ từng chi tiết về quãng đời thơ ấu, ngôi nhà nhỏ bên cạnh tháp chuông cũ kỹ dẫn ra biển, những buổi chiều tan học rong ruổi trên triền dốc. Anh kể những câu chuyện ly kỳ về chú mèo máy Doraemon và ao ước có được cỗ máy thời gian để quay lại những ngày xa xưa ấy… Anh cứ kể mãi, mặc cho Nguyên có nghe không, mặc cho con bé có hiểu không, anh vẫn cứ kể.
Hòa không tìm thấy bất cứ niềm vui nào trong những kí ức buồn bã đó để mang đến tiếng cười cho Nguyên. Nhưng khi bất chợt quay qua, anh chạm phải ánh mắt sáng rực của nó cùng vẻ mặt hào hứng. Nguyên bảo anh hãy kể tiếp đi, anh mừng thầm vì cuối cùng con bé cũng chịu mở lời. Nhưng câu chuyện của chính anh đã kết thúc. Không muốn Nguyên thất vọng, anh cố nặn óc nghĩ xem còn tình tiết nào chưa kể. Đã có lúc anh quên hết những kí ức đó rồi, có giữ lại cũng vô ích, mẹ anh đã không còn nữa, gia đình hạnh phúc anh từng có được giờ đã chia hai. Không ngờ rằng hôm nay anh lại khôi phục trí nhớ của mình và nhớ rõ đến vậy.
Nguyên lắc lắc cánh tay Hòa giục anh kể tiếp sau một khoảng lặng khá lâu. Hòa vắt óc suy nghĩ rồi anh khẽ kêu lên. Câu chuyện anh sắp sửa kể không phải do anh tận mắt chứng kiến mà anh nghe được từ một người hàng xóm kể lại. Trong thôn của Hòa có một bà lão làm nghề đan lát. Ngôi nhà của bà lúc nào cũng run run trước gió, chừng như muốn ngã sập. Buổi tối, bên trong không có lấy một ngọn đèn.
Người nọ kể luôn nhìn thấy bà ngồi bên hiên ngóng mắt về phương xa, bàn tay phải nắm chặt. Hẳn trong lòng bàn tay bà phải là một vật quý giá nên bà mới giữ chặt như thế nhưng thực chất đó chỉ là một chiếc nhẫn đã bạc màu. Lớp mạ vàng bên ngoài bị tróc ra một mảng. Trông nó thô kệch và xấu xí. Có lần bà đánh rơi chiếc nhẫn, bà gần như phát điên lên khi làm mất nó. Và khi tìm lại được bà nâng niu chiếc nhẫn cũ kỹ ấy như một báu vật. Mọi người trong thôn ngạc nhiên khi thấy bà không vứt chiếc nhẫn đi mà trái lại giữ gìn thật cẩn thận. Bà nói đó là kỷ vật của người chồng quá cố của bà để lại.
Thời còn con gái tuổi mơn mởn, bà tình cờ gặp một vị công chức giàu có. Tình yêu đến rất nhanh, bất chấp sang hèn. Chiếc nhẫn mà bà hiện đang nắm giữ chính là lời cầu hôn của chồng bà, minh chứng cho một tình yêu sắt son, bền vững. Thật vậy, từ khi lấy nhau, cuộc sống của hai vợ chồng chưa từng xảy ra một lần cãi vã nhưng không kéo dài bao lâu. Viên chức bị ám sát khi ông tố cáo lên ban lãnh đạo việc làm xấu xa của một nhân viên cấp dưới. Sau khi ông mất, bà quyết không lấy ai cả, ở vậy thờ chồng cho đến lúc bà nhắm mắt xuôi tay theo ông.
òa kết luận. “Em có hiểu gì không?”
Nguyên giương mắt nhìn anh, không tỏ thái độ gì.
Nắng tắt nhường chỗ cho bóng đêm. Bên ngoài khung cửa kính vài con đom đóm bay lập loè song song cùng với đoàn tàu. Ánh sáng của chúng yếu ớt chỉ đủ để nhìn thấy một vạt cây dao động trong gió.
òa ơi, em cũng muốn có một chiếc nhẫn.” Nguyên cất giọng. Gió lùa vào làm cho mái tóc nó bay bay.
òa trả lời. “Sau này khi em lớn lên, gặp được tình yêu của mình, chàng trai đó sẽ đeo nhẫn vào ngón áp út cho em.”
òa chưa từng bịa đặt bao giờ. Không phải anh không biết nói dối chỉ là anh thấy không cần phải làm vậy. Với lại giờ đây anh coi việc tạo niềm vui cho Nguyên là bổn phận cao cả.
Hòa dẫn Nguyên về nhà, trao tận tay cho ba của cô bé. Ông cảm ơn anh rối rít, còn thưởng anh một món tiền khá lớn nhưng anh lắc đầu từ chối. Anh giúp đỡ người khác không phải vì tiền.
Hòa bỏ đi. Được nửa đoạn thì ngoảnh đầu lại nhìn lên ô cửa sổ tầng hai, là phòng của Nguyên. Rèm cửa bay theo từng nhịp gió. Anh đi vào phố nhỏ rồi lại đi ra phố lớn, đi qua những con đường nhỏ hẹp và những giao lộ rộng thênh thang. Trong túi áo của anh là chiếc kẹp tóc màu xanh nhạt mà anh mua trước khi đón Nguyên định tặng cho con bé mà quên mất hoặc cũng có thể anh không đủ can đảm để làm điều đó.
Kể từ ngày rời khỏi quê nhà, Hòa nếm trải đủ mọi thống khổ này đến cay đắng khác. Nghề nào anh cũng làm nhiều nhất là vài ba tháng, ít nhất là một tuần và cuối cùng anh trở thành người quét rác cho xưởng kim hoàn. Bụi bẩn bám đầy người. Anh nhìn thấy bụi còn nhiều hơn các món ăn ngon trong nhà hàng, thậm chí trong từng cơn gió luồn vào thành phố, anh chỉ nghe thấy mỗi âm thanh lạo xạo của bụi bay mịt trời.
Mùa nối mùa trôi đi. Đông tàn rồi đông lại đến. Những đêm giá buốt, anh cuộn mình trong tấm chăn mỏng nghĩ về con đường tương lai phía trước. Anh thấy bất an khi không tìm thấy một tia nắng nào trên con đường đó dù là tia nắng mỏng manh còn sót lại giữa mùa đông rét mướt. Nhưng đôi khi trong những ngày khốn khổ ấy, Hòa lại thấy hiện lên trong đầu mình một áng mây trắng bồng bềnh cứu rỗi anh khỏi những ý nghĩ tiêu cực: đó là gương mặt xinh xắn của Nguyên. Anh không biết mình nghĩ về cô bắt đầu từ khi nào, chỉ biết rằng sau mỗi giờ làm, anh hay đi ngang qua nhà cô, ngó lên khung cửa sổ tầng hai có bức rèm phất phơ theo những khúc ca của gió và thấy ấm lòng đôi chút.
Nguyên bây giờ đã là một thiếu nữ hai mươi xinh đẹp rạng ngời. Cô hiện đang theo học tại một trường đại học danh tiếng trong thành phố. Anh tự hỏi cô còn nhớ anh không. Kể từ cái ngày ở sân ga hôm ấy tính đến nay cũng đã bảy năm. Thời gian trôi qua quá nhanh, phủ bụi mờ lên tất cả mọi thứ. Anh ở gần bên cô nhưng chưa một lần chủ động tiến đến bắt chuyện. Sở dĩ ngày ấy anh dễ dàng nói chuyện bởi vì Nguyên khi đó chỉ là một cô bé mười ba tuổi giờ đây cô đã hai mươi xuân xanh, dĩ nhiên là rất khó để mở lời. Công việc quét rác về đêm của Hòa khiến cả người anh đầy hôi hám, tiếp xúc với bụi bẩn và lũ chuột cống, anh sợ nếu lại gần Nguyên, cô sẽ không chịu được mùi hôi ấy.
Có hôm xong việc, Hòa không về túp lều của mình mà lang thang suốt đêm. Đường phố yên ắng. Nhà nhà đều đóng cửa. Chỉ có những vì tinh tú trên trời cao là thức cùng anh. Đây là khoảng thời gian anh thấy thảnh thơi nhất cũng là khoảnh khắc anh nghĩ đến cuộc đời mình nhiều nhất.
Bình minh xua tan bóng tối mang nắng chiếu rọi thành phố. Sớm tinh mơ, ở một số nơi, sương mù giăng phủ nhưng không quá dày. Hòa chậm rãi bước xuống dốc đầy hoa dại. Con đường không có ai ngoại trừ một người con gái khoác áo măng tô đứng kế bên bốt điện thoại, vẻ mặt ưu tư. Khi chỉ còn cách cô gái vài ba bước chân, anh nhận ra người đó chính là Nguyên. Một thoáng hương xuân phảng phất qua tâm trí anh giữa những cơn gió bấc lạnh lẽo.
Hòa tiến lại gần, cất giọng niềm nở. “Em còn nhận ra anh chứ? Anh là Hòa, người đã từng đón em ở sân ga bảy năm về trước.”
Nguyên ngước lên nhìn anh một giây, thờ ơ đáp. “Thì ra là anh, em nhớ rồi.”
Đây là cơ hội để Hòa chiêm ngưỡng nhan sắc thuần khiết của Nguyên. Môi cô như cánh đào đỏ thắm. Đôi mắt toát lên vẻ mềm mại, ấm áp nhưng cũng có lúc ánh lên nét mạnh mẽ, nữ tính giúp gương mặt cô trở nên sáng bừng mọi nơi mọi lúc. Họ bước cạnh nhau nhưng vẫn giữ một khoảng cách vừa phải.
Hòa chưa bao giờ nghĩ điều khiến Nguyên u sầu là vì một người khác. Anh ngước mặt lên trời nén tiếng thở dài. Cuối cùng cô gái bé nhỏ mà anh thương yêu đã rơi vào lưới tình với anh chàng hoạ sĩ điển trai, con nhà quý tộc. Vì một lý do nào đấy mà họ giận nhau nhưng chẳng bên nào chịu lên tiếng xin lỗi trước. Vì đây là mối tình đầu nên Nguyên không muốn chia tay sớm như vậy hơn nữa quan trọng là tình cảm trong cô vẫn còn đầy. Giờ cô không biết phải làm sao?
Thấy Nguyên ôm mặt khóc rưng rức. Hòa không kìm được, bèn nói. “Anh hứa sẽ giúp hai em giảng hòa.”
Nhìn cái gật đầu quả quyết của Hòa, Nguyên đưa cho anh một lá thư nhờ anh mang đến cho người yêu cô. Ban đầu chàng hoạ sĩ nghi ngờ mối quan hệ giữa Hòa và Nguyên, sau đó còn nói những lời khó nghe. Anh không kiềm chế được cơn tức giận và đã cho tên khốn - khiến Nguyên mất ăn mất ngủ - một bài học và còn dạy anh ta về lòng chân thành. May một điều chàng hoạ sĩ kia không phải là kẻ vô học, anh ta trầm ngâm suy nghĩ, nhận ra lỗi lầm và còn cảm ơn Hòa vì đã giúp mình nghĩ thông suốt.
Ngày hôm sau, chàng hoạ sĩ tìm gặp Nguyên. Một bó hoa, một lời xin lỗi và một cái ôm thắm thiết. Hòa thấy vui vì nụ cười của Nguyên và giấu đi buồn đau vào tim.
Một hôm trong lúc hốt rác cho xưởng, Hòa vô tình xem lỏm cách mà thợ kim hoàn đánh thành những chiếc nhẫn, còng tay hay hoa tai xinh xắn. Đột nhiên một sáng kiến lóe lên trong đầu anh. Nếu như mình có thể tận tay đúc thành một chiếc nhẫn làm quà tặng sinh nhật tuổi hai mươi cho Thanh Nguyên thì ý nghĩa biết mấy. Tuy chỉ là thoáng qua nhưng sáng kiến đó khiến anh suy nghĩ mãi và anh quyết định sẽ làm.
Hòa nói với chủ xưởng, xin học việc. Ông chỉ ngạc nhiên rồi nhận anh làm học trò. Anh không kể cho ai nghe về chuyện đó, chỉ âm thầm học hỏi, chăm chỉ đến mức quên ăn. Anh cũng biết để đúc thành một món trang sức cần rất nhiều thời gian. Hết mùa đông là tới sinh nhật Nguyên, anh hy vọng sẽ kịp. Anh không đòi hỏi gì cả cũng chẳng trông mong Nguyên sẽ biết tình cảm của anh. Chỉ là một món quà nho nhỏ bằng tất cả tình thương mến dồn nén bao nhiêu năm qua trong tận đáy lòng anh dành cho Nguyên vào ngày sinh nhật thôi. Nhưng trớ trêu thay, đổi lại sự chăm chỉ của anh là những cuộc hẹn vui vẻ của Nguyên với chàng hoạ sĩ kia. Anh từ lâu đã biết Nguyên không hề có ý gì với mình. Với cô, anh có lẽ giống như một người quen biết trên chuyến tàu thiếu niên năm ấy. Phải rồi, ai mà cần đến tấm lòng của một gã hôi hám và bẩn thỉu như anh. Trao đi chân tình có bao giờ được đáp trả bằng chân tình đâu chứ.