bởi M MT

11
5
3702 chữ

Cỡ chữ

Màu nền

Chương 1: Nắng


Mọi người thường bảo với anh, họ thích ánh nắng sớm mai, vì đó là ánh nắng đẹp nhất trong ngày. Ba anh lại khác, ông thích sự dễ chịu của ánh nắng những buổi xế chiều, vì khi ấy nó không yếu ớt như sớm mai, cũng chả oai bức nóng nực như buổi trưa, nó nhè nhẹ thoang thoảng chạm lấy làn da, báo hiệu cho ông biết đã đến lúc về nhà và gặp lại gia đình thân yêu của mình.

            Anh thì khác hoàn toàn với họ, anh chả thích ánh nắng sớm mai, cũng chả thích nắng xế chiều hoàng hôn buồn bã ấy, anh thích ánh nắng của những buổi trưa hè rực lửa, nơi anh nằm dưới tán cây sồi đỏ đón nhận những ánh nắng xuyên qua khẽ tay, và hương thơm thoang thoảng của cánh đồng hoa cosmos phảng phất qua những cơn gió. Khoảng thời gian thú vị nhất của anh, vì đây cũng là lúc lũ gia súc tìm bóng mát nằm nghỉ và anh cũng chả mất công phải canh chừng.

            “Anh đang nghĩ gì vậy?” Một cô gái bất ngờ xuất hiện và tò mò chàng trai tóc vàng đang nằm dưới tán cây.

            Anh bật ngồi dậy và một cô gái trong chiếc đầm trắng xuất hiện trước mắt anh. “Nghĩ về tương lai, về lý tưởng, những tháng sau và nhiều năm nữa. Nhiều thứ lắm, nhưng tôi chả bao giờ nghĩ có một ngày, một cô gái tựa như thiên thần trong truyện cổ tích lại xuất hiện trước mặt tôi.” Anh không nói ngoa, cô thật sự rất đẹp, từ mái tóc vàng, ánh mắt nâu, đến cả làn da trắng hồng sau lớp áo đang mang.

            Cô nhếch môi cười. “Ở trường, người ta dạy anh những thứ này sao?” Miệng mồm anh chàng này cũng không phải dạng vừa.

            Anh đứng dậy phủi chiếc quần đen nhiều mảnh vá và chỉnh lại dây đai quần của mình. “Không, thật ra tôi đã bỏ học từ lâu. Vì tôi nghĩ mình còn nhiều thứ phải học, hơn là những kiến thức người ta dạy ở trường.”

            Cô tò mò. “Thứ gì?”

            Anh bước tới một bước. “Làm sao để nuôi sống gia đình, làm sao để bảo vệ những người thân yêu.” Anh bước tới thêm một bước nữa. “Cách nấu một bữa tối tuyệt hảo, cách nuôi dạy những đứa con.” Anh tiến thêm một bước. “Làm thế nào để trở thành một người cha tốt.” Anh chậm rãi nói. “Và một người chồng tuyệt vời.”

            “Hẳn là anh phải mất nhiều thời gian để nghĩ ra những lời tán tỉnh này nhỉ?” Cô chống nạnh. “Vậy, tôi là người thứ bao nhiêu anh dùng những lời này? Năm? Mười?”

            Anh lắc đầu. “Ngoại trừ mẹ tôi, bác Maria, bà Nadia, chị Jessica, và Rachel bé bỏng nằm trong nôi, thì cô là người cô gái đầu tiên tôi gặp.” Và cũng là cô gái đầu tiên anh nói những lời này.

            “Ồ, vậy tôi là người đầu tiên.” Cô mỉm cười. “Ok.”

            Anh chùi tay vào chiếc áo trắng ố vàng vì sợ tay mình bẩn. “Tôi là Joel.” Anh chìa tay ra. “Hân hạnh được gặp cô.”

            Cô bắt tay. “Tôi là Jolie.”

            “Hình như cô không phải là người ở đây?” Joel ngầm đoán qua giọng nói của Jolie, nó mang nặng âm hưởng đặc trưng ở phía Nam.

            “Vâng.” Jolie gật đầu. “Tôi mới chuyển tới đây.” Cô chỉ tay ra sau. “Tới nhà bác của tôi, bác Maria. Anh biết nhà George chứ?” Cô nghĩ George là họ nổi tiếng ở vùng này nên chắc anh sẽ biết.

            Joel giật mình. “Cô là cháu gái của bà Maria và ngài Harold?”

            “Vâng.” Jolie gật đầu. “Mẹ tôi là em gái của bác Maria.”

            Joel lập tức cúi người xuống. “Xin lỗi tiểu thư, thứ lỗi cho việc tôi đã bất kính.” Anh đứng thẳng dậy. “Tôi thề là tôi không biết tiểu thư là ai.” Anh chỉ tay ra sau. “Tôi là con trai của nhà Allen, người làm công của ngài Harold, tôi ít khi tới nhà chính nên không biết. Xin lỗi tiểu thư.”

            Jolie tò mò. “Anh làm gì cho nhà bác tôi?”

“Tôi và cha tôi chăn gia súc cho ngài Harold.” Joel chỉ tay về phía đàn gia súc.

            Jolie nhíu mày nhìn về phía xa, nơi đàn gia súc đang túm tụm lại. “Anh là cao bồi?”

            Joel chậc lưỡi. “Đại loại như vậy.”

            Thấy con ngựa trắng đang neo ở góc cành cây, Jolie liền nảy ý. “Vậy anh rãnh không?”

            Joel khẽ cười. “Tôi là một nông dân nghèo, tôi chả có gì ngoài thời gian cả.”

            “Vậy anh dạy tôi cưỡi ngựa đi.” Jolie mỉm cười.

            Không thể cưỡng lại được sự thu hút của Jolie, nên anh liền đồng ý. “Tuân lệnh tiểu thư.” Người đàn ông nào mà lại không xiêu lòng bởi nụ cười ấm áp tựa như ánh nắng ấy chứ.

            Thế là từ hôm đó, anh và cô quấn quýt bên nhau, như những chú ong vập vờn bên nhành hoa mới nở. Gặp nhau từ lúc bình minh, chia tay khi hoàng hôn đến, hai người bị cuốn lấy nhau như hai thực thể không thể tách rời. Hóa ra, anh nghĩ mọi người nói đúng, ánh nắng sớm mai là đẹp nhất, bởi vì đó cũng là lúc anh được gặp cô.

Lùa gia súc ra đồng, lùa tới bờ sông, lùa lên những đồi cỏ xanh mướt, lùa về lại trang trại lớn rộng, ngày ngày trên lưng ngựa, anh dạy cô những thứ mình biết, từ cưỡi ngựa, bắn súng, đến những công việc làm nông, cô cũng tâm sự những thứ về mình.

            Cô là con gái độc nhất của nhà Adams ở vùng Elington, ba cô vừa mới qua đời vì bạo bệnh, nên cô và mẹ di chuyển tới nhà bác Maria. Nếu như không có gì thay đổi, cô đã theo học và trở thành y tá, mặc dù ước mơ của cô là thiết kế và mở tiệm may quần áo dành cho nữ.

            Joel cũng kể về gia đình và ước mơ của mình. Ngoài ba mẹ, anh còn có một người em trai nhỏ là Henry. Ước mơ của anh chỉ đơn giản là có một trang trại nhỏ, sáng lùa gia súc ra đồng, chiều lùa gia súc về lại chuồng, ngày ngày ở bên cạnh vợ con thân yêu, nuôi dạy chúng thành người, lập vợ gả chồng và thưởng thức hoàng hôn khi tuổi già đến.

            Chẳng được bao lâu, khi tình yêu của hai người vừa chớm nở và ngày càng mãnh liệt hơn, thì cũng là lúc cô và mẹ phải rời đi bởi những tin đồn cuộc nội chiến sắp xảy ra. Mặc dù van xin, năn nỉ, cũng như tìm mọi cách để ở lại, nhưng cuối cùng chia ly vẫn phải đến.

            Ngày Jolie rời đi, anh đã phi ngựa đuổi theo chiếc xe Ford model T một quãng đường dài, chiếc xe mà chỉ những quý tộc và hoàng gia mới được sử dụng.

            “Jolie, Jolie.” Anh hét lớn.

            Jolie lúc này đang bật khóc trên xe, nghe tiếng anh gọi, cô liền quay lại. “Joel, Joel.” Cô như muốn nhảy ra ngoài khi thấy anh đang phi ngựa ở trên đồi.

            Joel như hứa với lòng mình. “Anh sẽ tìm em, anh nhất định sẽ tìm em.”

            Jolie thò đầu ra ngoài. “Em sẽ đợi anh. Em yêu anh.”

            “Anh cũng yêu em.” Joel muốn nhanh hơn, nhưng anh biết ngựa mình đã đạt đến tốc độ cực hạn, không thể bắt kịp mã lực của chiếc xe hiện đại, tân tiến và giàu có kia.

            Jolie nói lớn. “Anh không được gặp người con gái khác. Không được nói chuyện. Không được nhìn họ. Anh là của em.”

            Khoảng cách ngày càng xa và Joel nghĩ mình sẽ không đuổi kịp. “Đợi anh. Anh yêu em.” Bất ngờ, anh ngã ngựa.

            Jolie ngồi trên xe thấy được nên càng đau đớn hơn. “Joel, Joel.” Nước mắt cô tuôn trào không ngừng. “Em yêu anh.” Cô cởi chiếc mũ của mình ra và đôi về phía anh như một vật định ước giữa hai người.

            Joel nén đau và đứng dậy chạy theo. “Anh yêu em, Jolie.” Nhưng chỉ được một lúc thì anh gục ngã.

            Hoàng hôn buông xuống, chiếc xe dần xa khuất và anh chỉ biết quỳ xuống dõi theo trong vô vọng. Nắng không còn đẹp, hoa không còn thơm và hoàng hôn càng thêm hiu quạnh kể từ khi Jolie rời xa anh. Những tháng ngày rong ruổi trên lưng ngựa, những buổi chiều nằm dưới tán cây, hay những lúc cùng nhau lùa gia súc về trang trại, tất cả chỉ còn trong ký ức. Chiếc mũ anh đang đội, chiếc khăn tay anh đang giữ, là những thứ duy nhất của Jolie, mà anh có thể nhìn ngắm và ôm chặt.

            Thế rồi như những lời hứa hẹn trước đó, những bức thư Jolie viết cũng đến với anh. Có lúc mất vài tuần, có lúc vài tháng, anh mới nhận và đọc được những lời tâm tình của cô, cũng như anh trao lại cho cô những dòng chữ của mình.

Thế rồi cuộc nội chiến cũng nổ ra, khi Công tước xứ Inverner cùng những người khác quyết định nổi dậy chống lại nhà vua và triều đình, khi họ ban hành nhiều chính sách bóc lột và luật lệ tàn bạo với người dân, cũng như xâm phạm đến tính mạng và quyền tự do, dân chủ của mọi người.

Chiến tranh nổ ra, thư tín bị ngắt quãng, những tháng ngày Joel mong chờ thư từ của Jolie ngày càng kéo dài qua năm tháng. Dù muốn hay không thì vùng Hariton này cũng nằm trong chiến tuyến giữa hai miền, nhiều người bỏ đi, ngài Harold cũng vậy, ông đưa tất cả gia đình và người thân của mình vào phía Nam, chỉ một mình ngài và ít người giúp việc ở lại trang trại.

            Gia súc, đàn thì bị thu mua với giá rẻ mạt, đàn thì bị quân đội tịch thu, đàn thì chết bởi đạn pháo, ngài Harold và những trang trại khác đều bị ảnh hưởng, Joel và gia đình cũng không còn gia súc để chăm.

Những thanh niên cùng trang lứa, người gia nhập quân đội, kẻ rời đi để tiếp tục con đường hoài bão của mình, một vài người tìm đến thành phố khác để mưu sinh. Phía Bắc tự do, dân chủ, quyền lực thuộc về người dân, hay phía Nam quân chủ chuyên chế, quyền lực thuộc về nhà vua và quý tộc, kẻ Nam, người Bắc, mỗi người mang trong mình những hoài bão, ước mơ khác nhau và chiến đấu cho lý tưởng của riêng mình.

Joel thì vẫn quyết định ở lại vùng Hariton và chờ đợi một ngày nào đó sẽ đi tìm Jolie. Nhưng dù né tránh thế nào thì số phận cũng ập đến với anh, dù muốn đứng ngoài cuộc chiến, nhưng cuối cùng định mệnh cũng bắt anh phải tham gia vào.

            Trong một buổi tối cuối thu, anh đang cầm khẩu súng M1903 Springfield gác trước nhà ngài Harold, một buổi tối như bao hôm khác, bảo vệ tính mạng và tài sản của ngài. Trong lúc đang nhớ nhung về Jolie thì anh bất ngờ thấy cậu em trai bé nhỏ chạy tới.

Henry vừa khóc, vừa lao tới. “Anh Joel, nhiều người lạ tới đánh ba mẹ. Họ đánh ba mẹ.” Cu cậu òa khóc.

Joel quỳ xuống ôm em trai mình. “Henry, nghe anh nói đây. Vào trong nhà đợi anh, không được đi đâu hết.”

Tức tốc cầm súng leo lên ngựa lao đi, nhà anh và trang trại của ngài Harold cách nhau không xa lắm. Nhưng đó là với anh, đối với Henry bé bỏng, đó là cả một quãng đường dài. Cu cậu dũng cảm chạy đến báo tin, có nghĩa ở nhà thật sự đã xảy ra việc gì đó rất nghiêm trọng. Có điều anh chưa bao giờ nghĩ tới hay mường tượng đến việc, ba anh đã bị giết và mẹ anh bị những kẻ khác cưỡng hiếp ngay trong nhà.

Nhìn thấy ba mình đang bị treo cổ trước cửa, cơn phẫn nộ của anh nhanh chóng lấn át sự đau thương đang trào dâng trong người. Lập tức bắn chết một gã đang ngồi cười trước nhà. Anh lên đạn và bắn chết tên thứ hai đang định chạy thoát. Đạp cửa xong vào nhà, nhìn thấy một gã đang cưỡng hiếp mẹ mình, ngay lập tức anh siết cò.

Nhưng chẳng may anh bị một gã khác gần đó lao tới hất nòng súng đi. Viên đạn bắn trượt găm thẳng vào tường. Bị hắn ta hất văng khẩu súng và leo lên người đấm vào mặt, phải mất một lúc để anh lấy con dao giấu trong người và thột mạnh vào bụng hắn ta. Anh đâm liên tục đến khi hắn ta đau đớn gào thét lên, và khi hất hắn ta ra khỏi người, anh lập tức ném dao vào tên vừa cưỡng hiếp mẹ mình. Mũi dao sượt qua người và hắn ta tuôn chạy ra ngoài khi không kịp lấy súng gần đó.

Nhặt khẩu súng lên, anh lên đạn và bắn chết tên mập vừa mới bị mình đâm, dù hắn ta đang nằm hấp hối trên sàn. Lên viên đạn cuối cùng, anh bước ra ngoài, giơ súng lên ngắm và siết cò, viên đạn găm thẳng vào lưng tên đang chạy. Hết đạn, tìm thấy chiếc rìu chẻ củi gần đó, anh nhặt lấy và chậm rãi bước tới.

“Xin hãy tha mạng cho tôi.” Gã nằm dưới đất van xin tha thiết. “Làm ơn.”

Tha mạng, tất nhiên là không, cắn chặt răng, anh táng chiếc rìu thật mạnh xuống đầu gã, máu văng tung tóe và chiếc rìu vẫn cắm trên chiếc đầu bị bổ ra làm hai đó.

Mẹ Joel lúc này bước ra, sau khi tháo dây hạ xác chồng bà xuống, bà ôm ông vào lòng và bật khóc thảm thiết. Nhìn thấy cảnh tượng như vậy, Joel cũng không cầm được cảm xúc và rơi nước mắt theo. Nhưng chưa kịp an ủi mẹ mình và bày tỏ lòng thương tiếc với cha, anh đã sụp đổ hoàn toàn.

“Joel, hãy bảo vệ em con. Hãy chăm sóc Henry giúp ba mẹ.” Dứt lời, bà liền cầm khẩu súng lục ổ quay Smith & Wesson Model 10 của một trong những tên lính và bóp cò.

Joel hét lên khi thấy mẹ mình chĩa nòng súng vào đầu. “Không, không.” Anh lao tới. “Mẹ, mẹ ơi.” Anh quỳ xuống ôm xác bà vào lòng. “Không, không.” Anh bật khóc thảm thiết. “Tại sao? Tại sao?”

Khi ngài Harold cùng với Henry và những người khác cầm súng đi tới, mọi chuyện đã quá muộn. Nhìn thấy Joel đang đào đất và gia đình nhà Allen nằm bên cạnh, ông như hiểu ra. Lập tức cởi mũ xuống và đặt trước ngực, ông cúi chào tiễn biệt những người trung thành và thân thiết của mình.

Đợi sau khi chôn cất xong, ông liền nắm chặt đôi vai của Joel. “Joel, Joel.” Thấy cu cậu như người mất hồn, ông liền tát mạnh vào mặt. “Joel.” Khi cu cậu hoàn hồn lại, ông liền nói. “Nghe ta đây. Bọn chúng là lính, quân đội sẽ cử người đi tìm. Nếu cậu ở đây, bọn chúng sẽ treo cổ và băm xác cậu ra thành trăm mảnh. Cậu và Henry phải rời khỏi đây.”

Nghe những lời nói của ngài Harold, Joel sực nhớ mình phải bảo vệ Henry theo lời ủy thác của mẹ, cũng như những gì ba anh sẽ mong muốn.

 “Hãy ra bờ sông, đi về phía Tây khoảng vài trăm thước, sẽ có một chiếc xuồng nhỏ. Hãy chèo qua sông và đi thật xa về phía Bắc.” Ngài Harold căn dặn. “Hãy quên mọi thứ đã xảy ra. Cậu không biết gì cả.” Ông ôm Joel vào lòng. “Cậu là một chàng trai tốt. Cậu xứng đáng có một cuộc sống tốt đẹp hơn.”

Nghe xong những lời căn dặn, Joel nhận lấy tiền của ngài Harold và nhanh chóng rời đi với hành trang ít ỏi. Khi đang đi về phía cuối đồi, anh nhìn lại ngôi nhà thân yêu của mình và thấy nó đang rực cháy bởi ngọn lửa bao trùm. Mọi thứ tan tành trong phút chốc, tựa như cuộc đời bi thảm của anh.

Nén đau thương trong lòng, theo lời của ngài Harold, anh cùng Henry chèo xuồng vượt sông, len lỏi qua rừng và đi về phía Bắc. Nhập vào đoàn di cư, anh cùng với họ đến trại tị nạn bên ngoài thành phố Leighton cũng là lúc mùa đông ập đến.

Những đồng tiền ngài Harold cho cũng đã hết, anh cũng gắng hết sức làm những công việc khác nhau khi nghề chăn nuôi gia súc không sử dụng được, từ khuân vác, xây dựng đến mọi thứ để kiếm tiền nuôi sống Henry.

Thời gian qua đi, Henry ngày càng bệnh nặng hơn, tiền mua thuốc không đủ, anh đành phải bán những vật dụng mình mang theo. Chiếc đồng hồ của ba, chiếc nhẫn và dây chuyền của mẹ, đôi giày anh được ngài Harold tặng. Thậm chí anh phải trao đổi chiếc mũ của Jolie để đổi lấy một mẫu bánh mì giữa mùa đông giá rét.

Henry bẻ đôi mẫu bánh mì. “Anh ăn đi.”

Anh khẽ cười xoa đầu cu cậu và nói láo. “Anh ăn rồi, em ăn đi.”

Mùa đông khắc nghiệt khiến bệnh tình Henry ngày càng trở nặng, chưa kể cơn đói khiến cả hai đều kiệt quệ mọi thứ. Cõng Henry trên lưng, anh chạy đi tìm bác sĩ để chữa bệnh, nhưng chả ai nhận, khi anh không có tiền.

Số phận sau đó đưa đẩy, Joel vô tình tìm đến một trại cứu thương dã chiến nằm trong khuôn viên của một nhà thờ, nhưng trớ trêu thay, nó lại không dành cho người tị nạn từ phía Nam. Mặc cho anh năn nỉ, van xin, quỳ lại chữa bệnh cho Henry, nhưng họ vẫn bỏ ngoài tai và chả đoái hoài tới.

Đến khi một nữ tu sĩ xuất hiện và bà chỉ cách cho anh. Henry sẽ được chăm sóc, chữa bệnh và nuôi dạy bởi nhà thờ, nếu như gia đình của em đang tham gia chiến trận và không có ai ở bên cạnh. Điều đó có nghĩa Joel phải trở thành người lính và tham gia vào quân đội.

Lập tức để Henry ở lại nhờ nữ tu sĩ chăm sóc, Joel hứa sẽ đem giấy gia nhập quân đội về. Hỏi thăm vài nơi, hỏi thăm nhiều người, cuối cùng anh cũng tới nơi tuyển quân trong thành phố.

“Tị nạn, bỏ học, không bằng cấp kỹ thuật, không biết kỹ năng máy móc.” Sĩ quan tuyển dụng đặt tờ thông tin xuống bàn. “Thế cậu biết gì?”

Joel nhìn thẳng vào mắt sĩ quan. “Tôi biết dùng súng.”

Sĩ quan tuyển dụng lập tức đóng dấu rồi chỉ tay ra phía sau. “Cửa thứ nhất.”

Joel sau đó lập tức được tuyển dụng vào Trung đội 1, Đại đội 2, Trung đoàn 56, Sư đoàn bộ binh 19 của Lục quân miền Bắc. Lập tức cầm giấy gia nhập quân đội về, Henry sau đó nhanh chóng được chữa bệnh. Khi cu cậu khỏe lại, cũng là lúc anh cùng những người khác phải hành quân ra tiền tuyến.  

            Joel ôm chặt Henry vào lòng căn dặn. “Nhớ ngoan ngoãn nghe lời mọi người. Anh sẽ về thăm em.”

            Những tháng ngày cực khổ bắt đầu khi Joel và mọi người ra tới nơi. Những trận chiến diễn ra liên miên, hai bên đều gắng cầm cự và chống trả nhau qua chiến hào. Nay chiếm vài tấc đất, mai lại bị đẩy lui vài mét hơn, cứ thế ngày qua ngày, bom đạn, khói súng, mưa rơi, bùn lầy, máu đổ, chết chóc, cuộc sống của anh và mọi người chỉ gói gọn trong những thứ như vậy.

            Hai mươi hai, ba mươi tám, cuối cùng Joel cũng không thể nhớ nỗi số người mình bắn hạ. Sự sống và cái chết chỉ cách nhau một hơi thở và anh với mọi người phải giành giật nhau mỗi ngày. Sự đau xót, thương cảm, thường thức của một con người nhanh chóng bị lấn át, mọi người trở nên vô cảm trước cái chết của đối phương.

            Năm tháng trôi qua, mùa đông này kế tiếp mùa đông nọ, thứ duy nhất khiến Joel cảm thấy mình đang sống đó là Jolie. Mỗi khi đêm về, cầm chiếc khăn tay cô tặng và nhớ về những ký ức xưa, đó là thứ sưởi ấm trái tim anh giữa trời đông giá lạnh, thứ duy nhất khiến anh cảm thấy tim mình đang đập, và là động lực mạnh mẽ để anh sống sót qua ngày.

            Những năm tháng sống bên chiến hào, thỉnh thoảng anh có nhận được thư từ của Henry. Ngoài việc viết thư cho cu cậu, anh cũng bắt đầu viết nhật ký, như một cách trải lòng với Jolie. Anh hy vọng nếu sau này mình hy sinh, cuốn nhật ký mang những tâm tư này sẽ đến với cô.