bởi Azul Rhosyn

141
19
1883 chữ

Cỡ chữ

Màu nền

Ngày đầu tiên ở Pocallos


CHƯƠNG I

Tôi yên vị, đôi mắt găm vào hàng người đứng trên ga. Đoàn tàu lăn bánh, tờ báo trên đùi tôi rung lắc nhẹ. Nó vội vã lật sang một trang báo, nơi dòng chữ đen trượt qua khóe mắt tôi rơi xuống sàn. Tôi giật mình, định với tay nhặt nó nhưng người phụ nữ đối diện đã làm nhanh hơn.

"Của bạn."

Tôi cầm lấy, "Cảm ơn.", không có ý định đọc tiếp.

Ngày tưởng niệm họa sĩ Androne, đó không phải là một tin mới. Cái chết của cậu xảy ra ba năm trước, trong ngọn lửa nuốt chửng mé rừng Sirah cùng căn nhà của cậu. Mặc dù các dụng cũ vẽ nằm ngổn ngang, cháy sém, người ta vẫn không thể tìm ra thi thể của Androne. Thế giới đã từng rúng động vì cậu một lần, khi cậu khẳng định mình sẽ tìm ra cái gì mới thực sự là nghệ thuật. Rồi lại vì cậu mà nhốn nháo lần thứ hai, khi cậu biến mất không một dấu vết. Làn sóng tranh luận lần này còn tốn giấy mực hơn, vì người tham gia luận bàn không cần kiến thức sâu sắc về nghệ thuật mà chỉ cần một trí tưởng tượng phong phú. 

Tất nhiên tôi không phải người duy nhất tiếc thương Androne, có tới hàng triệu triệu người yêu quý cậu, tuy vậy, giữa chúng tôi có một mối quan hệ theo kiểu khác. Tôi đã gặp cậu một lần ở Cobali, chàng trai mặc váy bohemian và kẻ mắt rất đậm. Androne là điển hình của một người không biết hài lòng. Cậu đã có sự công nhận từ giới phê bình, đạt không biết bao nhiêu giải thưởng, nhưng cậu vẫn cho rằng các tác phẩm của mình chưa đủ tốt và cần phải có sự đột phá lớn. Đến mức chính cậu đã xé đi bức tranh nổi tiếng nhất của mình chỉ vì "nó ngăn cản cậu sáng tác một thứ gì mới mẻ". Là một người có quen biết với cậu, tôi vẫn không dám chắc mình hiểu bao nhiêu phần của Androne. Không thể chạm vào cậu như cách chạm vào người bình thường, cách duy nhất khám phá Androne là qua tranh vẽ. Cậu không chảnh, nhưng cậu gợi lên sự tò mò. Cậu không để người khác nắm bắt, càng không để ai vẽ được cậu. Cũng bởi thế nên ba năm rồi tôi chưa thể gặp lại Androne, dù đã xem không biết bao nhiêu tấm chân dung sơn dầu. Tôi biết, Androne có một ánh mắt khác, một khí chất khác, một trường hào quang khác mà những bức tranh này không thể thể hiện được.

Tôi trở lại với khung cảnh bên cửa sổ, chợt nheo mắt lại vì ánh sáng chiếu vào. Tôi đùa với dải cầu vồng hắt lên tay, nhìn nó chảy trên gối xuống sàn tàu. Phía xa xa, ngọn núi Yester giống như một con bò xanh đang nằm trên đất. Cỏ mùa xuân lên những dải mươn mướt tươi non. Xuôi về chân núi, những hàng thông đứng nắm tay nhau trông như vẫy chào. Bất giác, tôi đưa tay đặt lên kính như để chào lại. Thành phố Lana Drey xa dần, cuốn theo tất cả những kỷ niệm chín năm ở đó. Cũng không đáng để tiếc, bởi tôi là một người hát vô danh: không ai có thể coi ca sĩ phòng trà là một sự nghiệp vững chắc. Ước mơ có lớn thế nào, tôi vẫn buông được nếu nó không còn thực tế.

"Hãy xem như ta vừa kết thúc một forte." Tôi nhủ thầm.

*

* * *

Tàu dừng lại ở ga Beryl, Pocallos vào lúc mười một giờ ba phút trưa.

Tôi sẽ đi lang thang đâu đó cho đến một giờ chiều rồi mới nhận chìa khóa nhà trọ. Theo lời tư vấn, tôi đã chọn hình thức ở ghép. Quả là việc chuyển đến ở chung với một người mình chưa biết mặt mũi khá liều lĩnh, nhưng tôi không đủ tiền để tự chi trả một mình. Được biết, người bạn cùng phòng sắp tới đây của tôi tên là Yvonne. Cô ta làm nghề họa sĩ và cũng quá khổ sở với tiền trọ nên gần như nhảy quýnh lên khi biết sẽ có người đến. Tôi đã tưởng tượng một viễn cảnh chào đón nồng hậu, hoặc chí ít là một màn chào hỏi xởi lởi, thân mật.

Hóa ra, đấy chỉ là một sự mong đợi quá mức. Khi cánh cửa mở ra, tôi chỉ thấy một người đang chúi mũi vào bức tranh, dường như đã đặt mọi thứ xung quanh ngoài phạm vi quan tâm của mình.

Tôi lẳng lặng đóng cửa và đi vào. Căn phòng không được sơn màu, hay nói đúng hơn là sơn xám. Kệ quần áo dựa lưng vào bức tường có cửa, mặt bên dựng cái thang treo giày dép. Đối diện với lối đi là hai cửa sổ lùa được nắng, nhưng chỉ mở hờ. Có một cái bàn cao thêm vài chồng giấy, hai cái giường xếp màu caro, các bức tranh được đặt sát vào nhau nhưng không treo, phía dưới sàn đầy các hộp màu sơn và bảng vải. Căn bếp nằm ở phía sau nhà, bao gồm cả phòng tắm và chỗ vệ sinh. Chỗ này giống xưởng vẽ hơn là nhà ở, và tôi không biết sự xuất hiện của mình có làm phiền. Đến giờ tôi vẫn giữ im lặng, không làm ồn là phép lịch sự đối với những nghệ sĩ. Khi họ đang sáng tác, ta phải chờ được mời. Nếu đột ngột xông vào và phá rối sự tập trung của họ, chẳng khác nào đã tùy tiện xâm phạm sự riêng tư của người đó.

Khi đã xong việc sắp xếp, tôi rỗi tay không để làm gì. Ngồi xuống chiếc giường, tôi lẳng lặng ngắm người phụ nữ vẽ tranh. Quan sát là nghệ thuật thưởng thức nghệ thuật.

“Hừm, lại không ổn rồi.” Cô ta nói năm chữ đầu tiên. 

“À, bạn mới” Ba chữ tiếp theo, “Xin lỗi, tôi không để ý.” Sáu chữ sau cùng. Và sau đó tiếp tục vẽ.

Tôi chưa trả lời ngay, một phần vì cô ta không cần câu trả lời, một phần vì tôi cứ ngờ ngợ đã gặp người này ở đâu. Một cô gái thanh niên có mái tóc đỏ xoăn gợn nhẹ, mặc chiếc quần thụng màu xám phiến, cùng áo lem nhem màu. Tôi tự hỏi đây có phải người đã nhặt giúp tôi tờ báo khi ở trên tàu. 

“Hửm?” Cô ta ngưng vẽ, nghĩ ngợi một chút, “Chỗ này đậm quá.”, và lấy màu trắng viền lại nét cọ vừa đi.

Tôi biết mình nhớ đúng, chắc chắn là người này. Nhưng theo chiều sâu tiềm thức, cảm giác quen thuộc của tôi có liên kết mạnh mẽ với những tầng ký ức đã giấu đi. Tác phong, nét vẽ, cách phối màu của Yvonne lập tức khiến tôi liên tưởng ngay đến Androne. Hai người giống nhau một cách kì lạ: rất quyết đoán, rất khó hiểu, và rất không quan tâm ai.

Người đàn ông trong tranh của Yvonne đang há hốc mồm, hai tay đưa lên má cảm thán một sự kiện bất ngờ. Rồi trong phút chốc, khuôn mặt của ông ta truyền sang tôi khi Yvonne hất cốc nước đổ lên bức tranh. Các đường nét nhòe đi, không còn một hình ảnh cụ thể nào nữa.

“Cô làm gì thế?” Tôi đứng bật lên.

“Nghỉ thôi.” Cô ta đáp, cụt ngủn.

Có vẻ Yvonne cũng là một người khó gần, cô khắt khe với chính đứa con mình tạo ra. Tôi thấy tiếc cho tác phẩm. Thế nào đi nữa, nó cũng xứng đáng được xóa bỏ một cách tử tế hơn là bị tạt nước.

"Tôi nhận ra cô." Yvonne ngồi trên ghế, lau sạch tay và nhâm nhi bánh mì, "Nhưng tính cách tôi hơi kì quặc nên cô chịu khó học làm quen nhé."

Tôi gật đầu.

“Tôi thức rất khuya, nói đúng hơn là tôi không ngủ. Nếu cô không chịu được ánh sáng thì tôi sẽ mua cái chụp đèn hoặc treo rèm ở giữa đây.” Yvonne vừa nói vừa lấy tay quệt một đường trong không trung, ở khoảng giữa hai cái giường, “Cô nấu gì tôi ăn nấy, hoặc nếu không thì mua cho tôi một ít bánh mì, sao cũng được. À mà” Cô ấy phủi tay rồi chìa ra phía trước, “Tôi tên là Yvonne.”

“Cecilia.” Tôi đáp, bắt lấy tay cô. Chúng tôi cười, hơi gượng gạo. Khi Yvonne quay lại công việc, tôi không hỏi gì thêm mà lấy cớ đi ra ngoài. 

Pocallos cổ kính đón khách với chiếc cổng chào D'rêver. Dọc lối đi vào, khoảng năm mét, người ta đặt những chậu hoa đồng tiền như để thể hiện sự thịnh vượng ở nơi này. Ở Cobali khách cũng vào thành bằng cổng, nhưng thành môn Morcais thấp hơn và cũng mềm mại hơn, nổi bật với các cột giả thức Hy Lạp. Tôi cũng nhớ tới Androne. Cậu đã ngồi vẽ mặc kệ cái nắng khét não ngày hôm đó, chỉ để hoàn thành một bức tranh mà sau này cậu sẽ đốt đi. Cái bóng là tác phẩm được đánh giá cao nhất của cậu. Nhưng nó đã là quá khứ, kể cả Androne.

Bảy năm đã trôi qua không một vết tích.

Mặt trời nghiêng xuống dòng sông Holvan, đổ màu đỏ ối của nó hòa vào mặt nước. Thiên nhiên đang chấm một nét cọ đầy uyển chuyển, đó là những tia nắng cuối ngày được rải lên cỏ cây, những cánh chim cắt ngang lưng trời, những âm thanh dịu dàng của chiều tới. Trong tôi dâng lên sự xúc động chứng kiến cái lụi tàn của một ngày, để hy vọng mặt trời lại trồi lên sáng hôm sau. Pocallos cũng có một bài ca, mà trong giây phút này tôi không thể kiềm mình hát.

Anh có chiến thắng được ván cờ

Để được trở về Pocallos

Dưới cổng chào D'rêver

Và tiếng báo tin lành...

*

* * *

Đến tối, khi thấy Yvonne có vẻ rảnh rỗi, tôi hỏi chuyện cô về nghệ sĩ Androne. Cậu ấy cũng có đầu tóc xù màu đỏ, khung xương hàm mặt vuông, màu da bánh mật và cách nói chuyện ít thiện cảm. Cô ta không nói gì và đổi chủ đề câu chuyện. Cái kiểu này rõ ràng là biết nhưng hẳn là không ưa tên đó lắm.

Đèn vẫn sáng dù Yvonne đã cố vặn nhỏ hết mức, lưng cô hắt lên tường một cái bóng mờ mờ. Tôi phải đi ngủ để ngày mai bắt đầu cuộc hành trình tìm việc. Sau khi nói chúc ngủ ngon, mi mắt tôi lập tức ngăn cách thế giới thực và mở ra không gian giấc mơ trải dài vô tận. Có hay đâu, chiếc bóng Yvonne đã đổ vào vùng vô định của tôi suốt đêm.

Ngày hết.