24
2
2382 chữ

Cỡ chữ

Màu nền

2. Phán quyết cuối cùng


Chuyến xe ngừng lại trước một tấm biển màu hồng lợt lạt, dây cỏ chen nhau che phủ, vết chữ khắc trên biển đã sắp bị gió cát mài cho nhẵn thín cả, đề tên:


Forgotten Hollow.

"Đi để quên."


Đó là sẽ một miền đẹp nếu không kể tới những câu chuyện huyền bí vây quanh bao đồn đoán buồn thương.

Ngài Harry bước xuống, chìa tay đỡ cụ Albus - đang rất hồ hởi ngắm nhìn chung quanh.


Ngài nhắc:

- Cụ cẩn thận, đường trơn.


- Ồ không sao đâu, bộ xương già này vẫn còn đủ chắc để ngã thêm vài lần.


Hai người đặt chân lên con đường lát đá cuội, chung quanh im ắng. Chiếc xe vừa đưa họ tới - một cái xe vẫn chạy được dù không có con ngựa kéo nào (chuyện này rất bình thường), giờ nó lại lộc cộc rời đi. Có tiếng vó đạp xuống đất và đám bụi bị thổi lên cao, xoắn mình giữa không trung.


Đường vào thung lũng Lãng Quên dài dằng dặc giữa bình nguyên heo hút nhưng mát mẻ. Hàng lau sậy phủ dọc sông, nép dưới bóng những tán liễu xù xì lêu nghêu. Cơn gió thoảng qua mang theo tiếng chim ríu rít. Nhưng sự thật là chẳng có con chim nào. Lạ là tiếng hót ríu ra ríu rít vẫn đều đặn bên tai.


Cụ Albus hỏi:

- Tại sao nó lại gọi là Thung lũng Lãng Quên?


- Mọi người vào đó để quên đi nỗi buồn. Khi chúng ta đặt chân tới thung lũng, mọi muộn phiền sẽ tan biến, cảm tưởng như được mãi mãi hạnh phúc vậy.


- Con nói con đã từng vào chứ?


Harry lắc đầu:

- Không, con chưa vào bao giờ.


Ngài mỉm cười trước ánh nhìn tò mò của cụ Albus, giải thích:

- Kế hoạch hôm nay thế này nhé: Đầu tiên, ta ghé quầy bán Bản Đồ của lão Gulihos, nhận chút đồ ăn vặt và đặt một chuyến xe phòng khi mỏi chân. Sau đó con dẫn cụ thăm nhà Mây, phải bước trên bậc cầu thang thứ hai trăm của cây Hải Du mới có chỗ ngắm cảnh đẹp nhất. Chúng ta sẽ lượn một vòng ở cầu Găng trước lúc về, khi chiều ngả, nước sông có sắc đỏ cam rực rỡ. Cuối cùng thì cụ cháu mình sẽ ghé tiệm bán đồ lưu niệm của bà Kagorast. Bà làm đồ ngọt ngon lắm. Còn về thung lũng Lãng Quên, tốt nhất không nên vào đó, vì bí hiểm và nguy nan chưa được khải thị để con giải đáp cho cụ bây giờ.


Harry dừng lại nheo mắt trông về phía xa. Lấp ló sau rặng sồi là các tường mái màu gừng tươi, ngài nhận ra trong thời gian trò chuyện, hai người đã gần tới đích. Hóa ra con đường cũng chẳng dài như tưởng tượng. Ngài nói tiếp:


- Chắc cụ thắc mắc sao lại không vào thung lũng, con khẳng định rằng Lãng Quên là một miền buồn đau, hơn bất cứ nơi nào. Vì những người gan dạ dám đặt chân lên đất đó, khi trở ra chưa từng ngưng vui cười. Họ hạnh phúc tới nỗi chẳng còn biết đồng cảm hay thương yêu ai. Nỗi buồn đúng là tồi tệ thật, nhưng vì chúng ta biết buồn, ta mới hiểu niềm vui. Cụ hãy xem, dịu dàng thay mặt trăng, nàng lẩn trong đêm tối và lặng im thắp sáng bầu trời; thì cảm xúc buồn bã cũng thế, nó đẩy niềm vui lên một tầng cao hơn, tuyệt diệu hơn. Vả lại, Hội đồng Thành phố đã cấm cửa thung lũng từ lâu rồi. Nó quá nguy hiểm.


Harry đẩy cái cửa trang trí bóng bẩy ra, bỏ giày ngoài cửa theo lời tấm thảm chùi chân yêu cầu. Sàn lát đá mịn, sạch không tí bụi. Đối diện cửa ra vào đặt một quầy lóc nhóc toàn sách báo, kế bên bày biện kệ bán kẹo, đồ ăn vặt đủ chủng loại. Một ông béo đang úp tờ báo trên mặt, người ngả ra ghế, ngáy mạnh tới nỗi thỉnh thoảng báo tốc lên, tuột xuống mũi. Ông ta đưa tay kéo tờ báo về chỗ cũ, ngủ tiếp.


Harry nói:

- Chào lão, lão Gulihos.


Gulihos bật dậy như bị kẻ thù đánh úp, tút một con dao găm chẳng biết lấy từ đâu ra khỏi vỏ, gầm:

- Ai đấy!


- Tôi đây, ông bạn. Làm ơn cho một tờ bản đồ và ít đồ ăn đường.


- Khách hả? À, Harry, chào cậu. - Gulihos chán nản nói, có vẻ mất hứng vì không được đánh đấm. Lão nhoài người tút một tờ giấy dưới chót đống sách vở chìa ra:


- Đây, còn đồ ăn thì bên kia, chọn thoải mái. Rồi ra ngoài giùm, nhớ đóng cửa. Hai người phá giấc ngủ trưa của tôi rồi.


Đoạn, Gulihos nằm phựt xuống ghế, che báo lên mặt thêm lần nữa. Harry nhún vai, qua kệ lựa ít kẹo bánh. Ngài nhặt chiếc bút trên quầy, viết vài dòng yêu cầu về việc đặt xe kết thúc chuyến đi, rồi ra ngoài.


Vừa đi, ngài vừa nói:

- Con nghĩ chúng ta sẽ được chào đón hơn ở nhà cây Hải Du. Hải Du là giống loài thân thiện nhất trên đời.


- Ta chưa từng biết về chúng, thật lạ ở Rimgareden luôn vắng bóng những thú vui. Chúng như thế nào?


- Thật là khó để nói cho cụ biết, con không giỏi trong khoản miêu tả cho lắm. Chúng có cánh, thân hình khổng lồ và lông vũ êm mượt. Nhưng cụ sẽ không trông thấy bất cứ con Hải Du nào cho tới khi bịt mắt. Con khuyến cáo là không nên rình coi dáng hình của nó, vì điều này không được cho phép.


- Tại sao vậy?


- Hội đồng Thành phố ra luật. Chắc cụ cũng thấy đấy, ở đây chẳng có một loài vật nào cả. Giống loài duy nhất tồn tại thì ta không được phép nhìn.


- Vậy còn bậc thang thứ hai trăm là sao?


- Rồi cụ sẽ biết nhanh thôi, đi qua lối rẽ này sẽ thấy.


Nhưng chuyến đi đó đã không thực hiện được, vì Hội đồng Thành phố cho mời ngài tới cuộc phán quyết. Một con chim - lần đầu tiên ngài thấy một con chim thực thụ, ngậm theo lá thư truyền lời đáp xuống đất. Trong thư thông báo thời gian phán quyết là hai giờ chiều, chuyến xe duy nhất từ thung lũng Lãng Quên tới Scarborough sẽ tới trong nửa tiếng nữa.


Bởi vậy, ngài phải từ biệt cụ Albus ngay, trở về mau cho kịp.


Cụ Albus cảm thông nói:

- Không sao, con cứ đi đi. Chúc con may mắn.


Harry xin lỗi cụ lần nữa, rồi trở ra bến xe. Hôm đó, trời vẫn nắng đẹp như mọi khi.


Ngày phán quyết là ngày trọng đại với tất cả những linh hồn tại đất Phiêu Du. Hoặc họ sẽ được trao trả lại ký ức, đi bắt đầu kiếp sống mới, hoặc biến mất như Isold Gogharm - cô bé nhà kế bên tiệm sách của ngài Harry. Ngài không mảy may mủi lòng hay buồn thương, ngài chỉ thấy lạ: Tại sao một linh hồn đã ra đi mà trời vẫn xanh tới thế? Và ngài vẫn nghe thấy tiếng chim hót, dù thuở xưa nay đường Scarborough vắng bóng loài chim.


Harry tự hỏi về con Ma Xó Elva, nó sẽ thế nào nếu ngài ra đi? Rồi ai sẽ tốt bụng cho phép anh em nó quậy từ ngày này qua ngày khác? Và ai sẽ trông nom cái thân ốm dặt dẹo của lão Helgrind, chăm coi ngựa cho lão? Nếu không có ngài, thì ở Scarborough còn ai gom báo cho anh bán giấy nữa chăng?


Ngài bỗng thấy hụt hẫng như một phần trong mình bị khoét rỗng. Ngài ngồi im lìm tựa một pho tượng đá được khắc sống động. Chiếc xe đang chuyển bánh, lướt ngang con đường quen thuộc tới Tòa án. Có người chờ sẵn trước cổng, đưa ngài vào phòng xét xử, đứng ở vị trí đối diện dãy bàn kê cao - nơi 28 người phán xử thuộc Hội đồng đang an tọa. Họ mặc áo choàng đen, đeo mặt nạ. Không ai nói với ai câu nào, không khí trang nghiêm.


Kim đồng hồ chỉ đúng hai giờ, một người đứng dậy, bắt đầu ngân nga khúc dài như tiếng êm lành của một loài chim cổ tích:


Òren ahas ime eha morényn laud cythm

Klyis súite eha poharn saxlle náda

Wrinky goharm assas mèia

Egsap evol wanks hube eha


- Giờ phán quyết đã tới. Hãy tới gần đây với chúng tôi, hỡi linh hồn vô danh.


Nghe theo tiếng gọi, Harry bước vào mảng đá hoa cương hình tròn, ở chính giữa phòng, được trang trí với những ký tự lạ lùng. 28 người phán xử đồng loạt chắp tay trước ngực, và tiếng thì thầm cùng lúc vang vọng. Ngài thấy những luồng tư tưởng lạ đang vờn quanh thân, xâm nhập, chi phối đầu óc ngài. Những ký ức bị phủ bụi từ lâu rõ lên, rồi lại mờ đi theo tiếng ngâm nga thánh thiện.


Ngài nhắm mắt lại. Chẳng biết qua bao lâu, người ngài nhẹ bẫng, tức là buổi phán quyết đã kết thúc. Harry mở mắt ra, ngài đã trở về chỗ đứng ban đầu.


Những người phán xử lần lượt tháo mặt nạ xuống, ngài ngạc nhiên khi thấy trong số họ có cả những cô bé, cậu bé rất trẻ, chỉ tầm 15, 16 tuổi, một số người thì lại quá già, tưởng như sắp tắt thở tới nơi. Một người đàn ông bước lên một bước, chắp tay, cúi chào ngài:


- Một linh hồn vĩ đại và sâu sắc, hỡi Harry Potter. Ngài đã chết vì hàng ngàn, hàng vạn con người. Hội đồng đã có quyết định. Chúng tôi sẽ cho ngài được đi, nhưng không phải về với kiếp sống mới trong hình hài đứa bé sơ sinh, mà về lại quá khứ. Đây là một ngoại lệ hiếm có. Đất Phiêu Du chứa chấp các linh hồn lang bạt, tới thời gian thì hoặc họ được đầu thai, hoặc tan biến. Một số rất ít người - như Ngài, sẽ được trao đặc ân xoay đổi thời thế.


Cô bé tóc hoe vàng đứng ra, cũng lặp lại động tác chào như người đàn ông trước đó, mỉm cười:

- Tùy theo cuộc đời lành ác mà phán định thời gian sống, ngài có 60 năm để nghịch chuyển quá khứ. Nhưng ngài phải nhớ điều này, quá khứ không của riêng ngài, nó là của chung tất cả. Mỗi hành động của ngài, tính suy kĩ càng trước khi thực hiện, bởi nó có thể đem tới sự sống cho một kẻ đáng lẽ đã chết, hoặc giết chết một người đáng lẽ được sống. Đây là một đặc ân, cũng là một gánh nặng, tùy vào ngài mà kết cục sẽ thay đổi hoặc không. Chúc ngài may mắn. Tôi, Achena, chân thành gởi lời chúc phúc cho ngài: Ngài sẽ là người may mắn nhất thế gian.


Một đốm sáng bay từ lòng bàn tay Achena tới bên Harry, ngài chợt thấy cơ thể mình có gì đó rất lạ, nhẹ hơn, bay bổng hơn. Cô bé lui về sau, nhường vị trí cho một cụ già. Cụ chống gậy, da nhăn nheo, nhưng giọng nói trầm ấm và có sức truyền cảm rõ rệt:


- Quá khứ của ngài, chúng tôi sẽ giữ nó. Ngài cứ sống và cứ coi đó là một kiếp mới, chỉ khác ở chỗ nó không bắt đầu bằng giai đoạn sơ sinh. Phần quà của già dành cho ngài là một món phép thuật quyền uy tuyệt đối, nhưng chỉ dùng được ba lần. Nó tráo đổi mạng sống, khiến kẻ thù của ngài phải ngã xuống thất bại, khiến kẻ bị thâu tóm sẽ hiến dâng tính mệnh, và giúp người thân yêu của ngài thức tỉnh, sẽ có hạn định - tối đa 10 năm kể từ khi đã chết. Lời khuyên của già dành cho ngài, tuyệt đối không lợi dụng người vô tội để trèo tới mục đích xấu xa. Cầu phước ngài được may mắn.


Lại một đốm sáng nữa từ cụ già tới với Harry. Khi cụ nói xong, người bước lên tiếp theo là một người phụ nữ trung niên, nét mặt khắc khổ. Giọng bà ta lạnh lùng:


- Đặc ân luôn đi kèm với đau khổ. Cuộc sống của ngài sẽ có nhiều bất ngờ và hiểm nguy hơn trước. Hãy cẩn trọng với mọi thứ, và khôn ngoan hơn khi đưa ra quyết định.


Họ lui ra sau, cả 28 người phán xử cùng chắp tay, nhắm mắt. Họ ngân nga khúc điệu mở đầu hồi nãy:


Òren ahas ime eha morényn laud cythm

Klyis súite eha poharn saxlle náda

Wrinky goharm assas mèia

Egsap evol wanks hube eha


Harry thấy mơ màng buồn ngủ. Ngài nhủ thầm, chỉ chợp mắt một lát thôi. Nhưng giấc mơ cứ trôi dần. Và ngài nghe loáng thoáng giai điệu Scarborough Fair.


On the side of the hill in the deep forest green
Tracing of sparrow on snow-crested brown.
Blankets and bedclothes the child of the mountain.
Sleeps unaware of the clarion call.


Bên sườn đồi nhuốm màu xanh đậm của rừng thẳm.
Dấu binh lửa của chinh nhân in trên mặt tuyết.
Chăn mền ôm ấp ngọn đồi non.
Hy sinh trong tiếng lệnh tử thần.


Trời đất chợt sáng bừng lên, đẹp lộng lẫy và tươi rực rỡ. Tiếng chim véo von hòa với hồi còi tu dài lạ lẫm. Âm thanh ùa vào tai ồn ã hơn cả tiếng trống gõ ầm ĩ những đêm hè ở Scarborough.

Ngài mở mắt, sực thấy mình đang ngồi trên một toa tàu.