140
10
3086 chữ

Cỡ chữ

Màu nền

Chương 1


"Nằm trên dải khí hậu nhiệt đới, chẳng mấy nơi ở Việt Nam có thể thấy sự đổi thay rõ rệt của bốn mùa. Cũng vì đó, chồi nở đầu xuân, hạ đỏ buồn bã, thu nhuộm man mác, hay tuyết rơi mùa đông, những cảnh sắc tuyệt mĩ của bốn mùa hầu như mọi người chỉ có thể ngậm ngùi xem trên ti vi hay các trang mạng. Có thể là bởi vậy, tôi đặc biệt nặng lòng trước khoảnh khắc hai mùa giao ban, từ đó dành toàn bộ tâm huyết của mình vào hội họa. Với mong muốn có thể dùng cọ vẽ thay cho máy chụp, họa nên những bức tranh chân thực nhất về thời khắc giao mùa, và cả về mùa thu với nhiều hoài niệm. Có lẽ tôi không phải họa sĩ giỏi, những bức tranh tôi vẽ cũng chẳng phải hoàn hảo nhất, nhưng tôi đã vẽ nó bằng cả trái tim, đam mê, tình yêu, lí trí và cả sức sống của cuộc đời mình..."


Tôi lặng nhìn ánh nắng cuối cùng của ngày rơi trên bức tranh mà mình tâm đắc nhất, kéo một vệt sáng chảy dài theo từng đường nét cảnh vật trong tranh, rồi tắt đi khi vẫn chưa thôi luyến tiếc. Hoàng hôn đã kết thúc, thời điểm tốt nhất để thấy được cái tình trong tranh cũng đã qua. Tôi gượng cười trước những câu hỏi vồn vập của đám phóng viên, hầu như không có ý định trả lời bất cứ ai. Cho đến khi một câu hỏi khéo léo vô tình lọt vào tai, khóe môi tôi mới thôi hẳn nụ cười phép tắc.


"Thiên Yết, cho hỏi tại sao mấy năm nay cô không còn vẽ tranh giao mùa mà chỉ gói gọn đề tài trong mùa thu? Vì sao gần đây cô luôn tô cho tranh những gam màu khá nhạt nhòa? Nếu khán giả không yêu thích tranh của cô nữa, liệu cô có muốn đổi một phong cách vẽ khác hay không?"


Một câu hỏi xóc xỉa, nhưng khá hay. Trước kia không phải chưa từng có kẻ hỏi tôi câu này, chỉ là lúc đó tôi không biết nên trả lời ra sao. Có lẽ hoàng hôn hôm nay đẹp hơn thường lệ, nên tôi mới lựa chọn đưa ra câu trả lời mà công chúng mong ngóng bao lâu nay.


"Thật ra tôi vẫn vẽ khá nhiều tranh về đề tài giao mùa, nhưng không có bức nào ưng ý nên quyết định không đem chúng đến triển lãm nữa. Còn về màu sắc của tranh, tôi chỉ tô những gam màu cơ bản là bởi vì nhận thấy để ánh hồng hoàng hôn thay mình tô điểm cho tranh có lẽ sẽ tạo nên một cảm thụ hoàn toàn khác. Cũng có thể có nhiều người không tán đồng quan điểm này, và đại đa số khán giả sẽ chẳng còn thích tôi như khi xưa. Nhưng quả thật tôi chỉ vẽ theo cảm nhận của riêng mình, nên thay đổi phong cách vẽ thật sự là làm khó tôi rồi."


"Cho hỏi nếu thời tiết không đẹp như mong muốn, hoàng hôn cũng không có thứ ánh sáng hợp với màu sắc tranh thì cô sẽ làm sao ạ?"


Tôi nhìn về phía mặt trời đang dần khuất dạng, nhưng ánh hồng vẫn còn đang vấn vít trên các rặng mây, nhẹ nhàng đáp: "Tôi không thể chắc chắn ánh nắng mặt trời sẽ phù hợp với màu sắc tranh của mình, nhưng luôn tin trời không phụ lòng người, ngày mai, sẽ lại là một ngày nắng đẹp..."


Mặt trời lặn hẳn, triển lãm kết thúc, người tan, tiệc cũng tàn.


Ngắm nhìn bức tranh họa lá vàng rơi rụng mùa thu lần cuối trước khi kéo màn che, tôi bất giác cảm thấy lòng mình trĩu nặng, nghe đâu đâu tiếng bước chân của hoài niệm, của thứ cảm xúc chớm nở thời mới lớn ùa về trong kí ức.


Và tôi, bỗng dưng nhớ ra, hình như mình đã quên nói với cánh nhà báo nguyên nhân thật sự đằng sau những bức tranh nhạt màu...


__


Tôi sinh ra vào một ngày đầu tháng mười một, đúng độ cuối thu nên lá vàng rơi rụng khắp các hang cùng ngõ hẻm, vậy nên bố mẹ gọi tôi là Diệp Thu.


Năm lên tám, bố tôi mất.


Trời chưa vào thu, nhưng cũng sắp rồi, khi mà trên những cành cây lá đã dần ngả úa sang màu vàng. Tôi chẳng còn nhớ được mẹ đã suy sụp ra sao, bản thân đã khóc đến ngất xỉu bao nhiêu lần. Chỉ là sau những đớn đau cả về thể xác lẫn tinh thần ấy, chúng tôi vẫn buộc phải chấp nhận sự thật rằng người đàn ông đóng vai trò trụ cột nâng đỡ cả nhà nay đã ra đi. 


Có lẽ mọi nỗi buồn của tôi đều bắt nguồn và diễn ra vỏn vẹn trong một mùa thu.


Còn nhớ hạ đỏ năm đó, chúng tôi vẫn là mẹ góa con côi. Nhưng đến đầu đông cùng năm, chung sống dưới mái nhà với chúng tôi đã xuất hiện thêm hai thành viên mới. 


Ở cái tuổi trăng tròn dở dở ương ương, bộ não tôi hẵng còn chưa đủ trưởng thành để thấu hiểu gánh nặng trên đôi vai gầy guộc của mẹ, trái tim cũng chẳng đủ lớn để bao dung cho cái cô độc hằng đêm mà mẹ phải chịu đựng. Tôi chỉ biết nghe theo cảm xúc của bản thân, leo lên cây phong lá đỏ rực sau nhà ôm chân thút thít khóc. Tôi giận mẹ. Giận lâu thật lâu. 


Thời gian là thuốc chữa lành vết thương, nhưng mấy ai hay biết, dòng chảy thời gian chỉ có thể xoa dịu vết xước ngoài da. Còn tổn thương sâu trong tâm trí hay lồng ngực, mãi cũng chẳng thể xóa nhòa.


Tôi đã dần chấp nhận cuộc sống bốn người, nhưng không muốn hòa hợp hay thân thiết với bố dượng và người anh trai hơn tôi hai tháng tuổi. Thậm chí đến gương mặt họ tôi cũng chưa từng nhìn thẳng một lần. Tôi ghét họ, chỉ là làm ra vẻ không ghét mà thôi.


"Diệp Thu, học Đại học xa nhà nhất định phải biết tự chăm sóc bản thân. Hải Nam, con là anh trai, phải biết bảo vệ em gái, tuyệt đối đừng để bất cứ thằng nào léng phéng tới gần em con, có biết chưa?"


Tôi gật đầu lấy lệ, cảm thấy bản thân quá vô cảm trước thời khắc chia li. Ánh nhìn của hai mẹ con giao nhau, mẹ mỉm cười, nếp nhăn hằn sâu bên khóe mắt: "Đi đi, thực hiện ước mơ của con, bao giờ mệt thì quay về tìm mẹ."


Đây không phải lần đầu tôi xa nhà, mà kể từ lần đầu bước chân lên cấp hai tôi đã quen với việc nội trú trong trường. Đưa ánh nhìn ra xa xăm bên ngoài khung cửa sổ xe buýt, tôi hít một hơi thật sâu, cố kìm nén cảm xúc hưng phấn đan xen lo sợ ngự trị trong trí óc bấy giờ.


"Nghĩ gì thế?"


Đến nay, thói quen không nhìn mặt anh trai vẫn chưa thể từ bỏ. Bởi vậy mà tôi chỉ có thể nhớ mang máng đường nét khuôn mặt anh ta, còn lại đều dựa vào giọng nói để phân biệt. Nếu nhận xét một cách công bằng, âm điệu trầm khàn trong giọng nói của Hải Nam thật sự có vài nét tương đồng với bố tôi. Vậy nên dù không nhìn mặt, tôi vẫn không bài xích chuyện đối thoại với anh ta.


"Không liên quan đến anh."


Hải Nam bật cười, đưa tay xoa xoa mái tóc đã dài đến ngang hông của tôi: "Thiên Yết, bao giờ em mới thôi kiểu ăn nói cộc lốc với anh đây hả?"


"Chúng ta vốn bằng tuổi, vì sao tôi phải dùng kính ngữ với anh? Còn nữa, đã nói bao nhiêu lần với anh rồi, tôi không hiểu chiêm tinh học, cũng không có ý định tìm hiểu về mấy cái chòm sao nhảm nhí đó, đừng có gọi tôi là Thiên Yết mãi như thế."


Lại một tràng cười, mái tóc tôi bị xoa đến loạn xạ lên. Nhưng Hải Nam đã thôi không bắt tôi dùng kính ngữ với anh ta nữa. 


Lấy ra chiếc lược mà bản thân đã sớm để trong túi xách, tôi mặc kệ ông anh trai đang chống cằm nhìn mình bên cạnh, đưa tay chải lại mái tóc buông xõa rồi buộc gọn gàng chúng lên. Thật ra mấy năm qua anh vẫn luôn bao dung cho sự chống cự của tôi, bất kể tôi hỗn láo với dượng hay xem Hải Nam như không khí, kết quả cuối cùng luôn là anh đứng ra thay tôi nhận lỗi. Tôi không hỏi anh tại sao, Hải Nam cũng chẳng nói với tôi lí do. Chỉ biết hình như anh rất thích xoa đầu tôi, bất cứ khi nào, bất kể ở đâu.


Cuộc sống đại học nói cho cùng thì vẫn không vui vẻ bằng hồi học cấp ba. Hoặc có thể do mỗi ngày tôi đều trôi qua ở phòng tranh, đến giờ giới nghiêm của kí túc mới lết xác trở về phòng ngủ nên mới có nhận định như vậy. Những cuộc chạm mặt với Hải Nam giờ đã trở nên hiếm hoi. Ngược lại, gần như ngày nào tôi cũng gặp Song Tử, và ngồi bên cậu cho đến khi tối mịt.


Nếu như Hải Nam trở thành mảnh ghép trong bộ ghép hình mang tên gia đình tôi một cách khiên cưỡng, thì Song Tử lại đến bên tôi một cách bình yên và nhẹ nhàng như cách mà mỗi lần mùa thu đến. Chúng tôi biết nhau qua những cái gật đầu chào hỏi, thân nhau bởi cùng chung đam mê hội họa. Nhưng có lẽ cảm xúc bồn chồn hồi hộp khi nói chuyện với nhau, chỉ riêng mình tôi có.


Không chỉ là người có tài năng nhất lớp mỹ thuật, Song Tử còn là cậu bạn điển trai mê đảo hàng ngàn thiếu nữ. Bất cứ nơi nào có cậu xuất hiện, cảnh vật xung quanh bỗng chốc trở nên nhạt nhòa. Cảm giác mà cậu mang lại cho tôi không một chút an toàn, nhưng tôi lại chẳng đủ khả năng tự kéo mình ra khỏi vũng lầy cám dỗ. 


Tôi bây giờ đã đủ lớn để hiểu được thứ tình cảm bồi hồi lúc này được gọi là gì. Có điều trái tim tôi dường như vẫn mềm yếu như khi còn bé, chỉ biết ôm nỗi niềm giấu nhẹm vào trong. 


Nếu người khác lựa chọn viết nhật kí để bộc bạch tâm tình, thì riêng tôi lại dành cả tâm tư tình cảm để khắc họa nên bức chân dung của Song Tử trên tờ giấy vẽ đã hoen ố những màu sắc loang lổ. Dù nhiều lần nhìn lén cậu, nhưng thứ đọng lại trong trí óc tôi không đủ để có thể ghép lại thành một bức chân dung hoàn chỉnh. Tôi chỉ có thể mỗi ngày để ý đến cậu nhiều một chút, khi thì đôi mắt biết cười, khi thì chiếc mũi cao thẳng, lúc lại là khóe môi mỏng gợi cảm. Từng đường nét trên khuôn mặt cậu bắt đầu thành hình dáng xác định, cho đến khi mái tóc được "tỉa tót" cẩn thận sao cho thật giống với nguyên mẫu của Song Tử ngoài đời, thì bức chân dung đầu tiên tôi dùng cả tâm huyết và cẩn thận trong từng chi tiết rốt cuộc cũng đã hoàn thiện. 


Nhìn tác phẩm do chính mình tạo ra, nhìn góc nghiêng thần thánh của cậu bạn trong tranh, không hiểu sao tôi lại rơi nước mắt, suýt chút đã không kiềm chế được mà chạy tới ôm tranh khóc tu tu như con dở người.


Tôi cuốn bức tranh lại, cho vào hộp và đặt nó ngay ngắn ở đầu giường. Tôi cũng chưa từng nghĩ đến mình sẽ công bố bức tranh, vì lá gan không cho tôi đủ can đảm, và cũng vì tôi muốn giữ nó lại cho riêng mình. Yếu hèn, ích kỉ cũng chả sao. Chỉ cần không gây phiền phức cho Song Tử, không phá vỡ và làm khoảng cách giữa chúng tôi ngày một xa hơn, tôi đều chịu được cả.


"Em gầy đi nhiều đấy, Thiên Yết."


"Không cần anh lo."


"Chà, hôm nay nghe anh gọi em là "Thiên Yết" sao không thấy cự nự gì hết nữa vậy? Bắt đầu chấp nhận rồi sao?"


Tôi cụp mắt, có hơi chột dạ. Bởi bố mẹ Song Tử vì yêu thích chiêm tinh học nên đặt cho cậu cái tên y hệt chòm sao bản mệnh. Thế nên một đứa từng tuyên bố chẳng bao giờ tìm hiểu về chiêm tinh học như tôi đành phải tự vả mặt, lên mạng tra biết bao là thông tin về chòm sao Song Tử, mong tìm được chút gì đó liên quan tới cậu. Sau hồi lâu đắn đo, tôi rốt cuộc cắn răng lấy cái tên "Thiên Yết" làm nghệ danh. Cũng may là Hải Nam không biết, nếu không có khi anh đã cười nhạo tôi đến độ thúi mũi mất.


Thấy tôi im lặng không đáp, Hải Nam cũng không nói gì thêm. Chừng lát sau, anh nhét vào tay tôi một hộp cơm hẵng còn nóng, vỗ vỗ vai tôi một cách trịnh trọng, nhưng lời nói ra lại không một chút đứng đắn: "Em biết không, bộ dạng ốm yếu của em bây giờ thật sự rất giống một con ma bị bỏ đói, gầy đến trơ xương. Nếu còn không ăn, anh sợ em sẽ thật sự không còn sức mà gân cổ cãi nhau với anh như bây giờ nữa đâu."


Tôi bĩu môi, chẳng nâng khóe môi nở một nụ khuyến khích cho trò đùa nhạt nhẽo của Hải Nam. Nhưng dưới sự ép buộc của anh, tôi vẫn phải xơi hết một hộp cơm đầy, hai cái đùi gà nướng, và nốc cạn thêm một lon coca cola trước khi cơn buồn ngủ kéo đến khiến tôi ôm chân co ro thiếp đi.


Nắng tắt nơi phía chân trời, tôi say ngủ trên bờ vai săn chắc của Hải Nam. Nhưng lạ thật, dù nắng đã tàn, tôi vẫn cảm thấy ấm áp như được ánh dương rực rỡ soi rọi.


.


Bốn mùa đầu tiên của năm nhất đại học lặng lẽ trôi qua, mối quan hệ của tôi và Song Tử vẫn dậm chân tại chỗ. Ngoài những lúc kề vai nhau bên bàn vẽ, chúng tôi chẳng có mấy dịp được nói chuyện riêng, nếu có, cũng chỉ xoay quanh đề tài mỹ thuật và kĩ năng hội họa. 


Ngày cuối tuần, được dịp rảnh rỗi hiếm có, tôi quyết định xách bàn vẽ ra ngoài vẽ tranh giải khuây. Tốn hơn nửa ngày mới xem như hoàn thiện bức tranh phong cảnh mùa thu, đang định thu dọn họa cụ, tôi suýt rớt ghế khi bên tai bỗng vang lên tiếng thì thầm: "Lúc nào tập trung vẽ tranh là cậu lại không biết trời trăng mây gió như thế à? Tớ gọi cậu gần chục lần mà chẳng thấy cậu phản ứng gì cả."


Tôi hơi xoay đầu theo phản xạ, hơi thở ấm nóng của Song Tử bỗng thổi đến bên má, tôi ngượng ngùng đưa mắt sang hướng khác, trả lời lấy lệ: "Cậu gọi tớ à? Có chuyện gì không?"


Song Tử gật đầu, nhưng không lên tiếng mà chỉ đưa tay xoa cằm, chăm chú nhìn tác phẩm mới hoàn thành của tôi như có điều suy nghĩ. Chậm mất vài giây, tôi mới ngớ ra, vội vàng bật dậy tháo kẹp cố định và lấy tranh ra cuốn bỏ vào hộp.


Song Tử bật cười nhìn vẻ luống cuống của tôi, đợi tôi thu dọn xong họa cụ mới lên tiếng nhận xét: "Tổng thể tranh của cậu chưa hài hòa, phối màu cũng không tốt lắm. Nhưng phần cảnh vật, nhất là những chiếc lá vàng cậu vẽ lại rất có hồn, khiến cho người xem như cảm nhận được ý không cam tâm của phiến lá khi bị rơi rụng trước quy luật tuần hoàn. Nếu chú ý hơn ở phần phối màu tổng thể, có lẽ lần sau tranh cậu vẽ cũng được trưng bày ở triển lãm của trường cũng không biết chừng."


Tôi mở to hai mắt, cố nhìn rõ biểu cảm khuôn mặt Song Tử để chắc chắn rằng cậu không phải đang đùa giỡn. Xưa nay trong lớp Mỹ thuật, tôi là kẻ kém nhất ở khoản vẽ người, vẽ tĩnh vật hay tô nét đậm nhạt có lẽ cũng chỉ sàn sàn. Vậy mà hôm nay Song Tử lại cho rằng tranh phong cảnh của tôi có thể đem đi triển lãm, liệu có phải tôi đang mơ, hay đơn giản là trò đùa nghịch ngợm của cậu bạn thiên tài?


"Cậu... cậu nói thật sao?"


"Xem cái mặt cậu kìa, bất ngờ đến thế sao? Đi thôi, hiếm có dịp ra ngoài, tớ mời cậu một bữa."


Duyên phận của người với người đôi khi thật diệu kì, trước kia dù tôi nỗ lực tiến về phía Song Tử, thì khoảng cách chúng tôi chỉ có xa hơn chứ chưa bao giờ được rút ngắn. Còn bây giờ vốn là cuộc chạm mặt tình cờ, lại bền chặt và gắn bó dài lâu ngoài sức tưởng tượng. 


Kể từ đó, cái tên của chúng tôi luôn được gắn liền với nhau, dù chỉ với danh xưng là bạn bè, hoặc kỳ phùng địch thủ.


Cùng tham gia nhiều cuộc thi hội họa, cuộc chiến trên trường vẽ của chúng tôi chưa bao giờ có hồi kết, trái lại thứ tình bạn "trong sáng" cũng trở nên thân thiết một cách kì lạ. Đại đa số cuộc thi đều là Song Tử chiếm ngôi vương, chỉ có đôi ba lúc gặp may, tôi mới thắng cậu một cách không lường trước.