0
0
3325 chữ

Cỡ chữ

Màu nền

Chương 2: Mụ Mân điên


Tiếng gào thê thảm như con thú hoang bị đạn ghim vào yếu huyệt, giữa tiết trời ngả chiều nghe đến thê lương. Bàn chân chớm đặt trên bậc thang xi măng nhà ông Hưng vội chuyển hướng, cô chạy ra ngoài cổng để xem đã có chuyện gì xảy ra.

“Giết người! Giết người! Giết người!”

Thanh âm the thé tiếp tục vang lên, trước hàng rào râm bụt mọc sum suê trên mấy cọc xi măng được đắp tạm bợ, một người đàn bà tóc tai rũ rượi với gương mặt bẩn thỉu đang nằm lăn lộn dưới mặt đất đầy sình bùn. Quần áo bà ta cũ kỹ rách nát như ăn mày, móng tay đầy ghẻ đất, chân không đi giày dép mà cứ vậy gào thét không ngừng.

“Này! Lại bả nữa. Kêu mấy người kéo bả đi đi. Cứ ở đây la hét cái gì không biết!” Một người trong sân trước tò mò chạy ra xem, vừa nhìn ra là ai thì quay đầu hét lên với những người bên trong.

Đây là… dì Mân! Hân cố lục lọi trí nhớ khi thấy nốt ruồi lệ dưới mắt phải của người phụ nữ tâm thần đang thét gào những câu từ vô nghĩa. Ký ức năm mười sáu quay lại trong lòng, dì Mân khi đó vẫn còn là người đàn bà hiền lành đằm thắm, tần tảo chăm sóc con trai mới sáu tuổi tên Đức của mình. Hai mẹ con dì Mân đi theo chồng là ông Trung từ miền ngoài tới thôn Phong Vị định cư, cần mẫn cầm cuốc rựa làm nông, nuôi mấy con gà như bao người dân khác trong thôn. Thế nhưng cuộc đời đối xử với người đàn bà này tàn tệ vô cùng. Thằng Đức đuối nước chỉ sau hơn một năm cả nhà ba người đến đây ở, ngay cái hồ Vọng Nguyệt phía sau nhà ông Hưng đây. Như đã từng nhắc đến trong cuộc trò chuyện gượng gạo trước đó với Hoàng, chồng dì Mân bỏ đi biệt tích cùng khoảng thời gian với việc ba Hân trúng nọc rắn mà qua đời. Thế nên trong một thời gian ngắn sau đó mẹ cô khá thân thiết với dì Mân, dì ấy cũng thường ghé sang nhờ bà Thuỷ bốc vài thang thuốc an thần. Khi rời thôn để lên thành phố học, Hân cứ nghĩ ít nhất mẹ mình cũng có dì Mân để bầu bạn, nào ngờ lần này trở về mới biết dì ấy đã trở nên điên loạn như kia.

“Chúng mày giết người ăn thịt sẽ bị quả báo! Quả báo!” Bà Mân vẫn cứ gào thét, lăn lộn không ngừng dưới đất mặc cho việc đã có hai, ba người nhào ra xách nách, kéo tay bà đi xa khỏi nhà ông Hưng.

“Lại bà Mân điên hả, dạo này bả lên cơn nhiều lắm.” Một phụ nữ khác bế đứa bé gái tầm ba, bốn tuổi đi ra đứng cạnh Hân ngó bà Mân bị một đám người kéo lê đi xa dần. Cô nhận ra đó là Thơm, vợ của Hải. Cả hai kết hôn nửa năm trước khi Hân đi học, xem chừng đứa trẻ kia là con đầu của họ. Thơm nói tiếp: “Mấy năm gần đây bệnh tình bả càng lúc càng nặng, thuốc của dì Thuỷ cũng mất tác dụng dần rồi. Chắc mấy nay bả lại quên uống thuốc an thần dì Thuỷ sắc cho.”

Hân nghe vậy liền nhớ tới mẹ mình, bà Thuỷ. Hai gia đình cô và dì Mân đều là người từ ngoài thôn dọn đến, thế nên đôi bên đều có sự đồng cảm với nhau, nhất là khi mẹ cô – một phụ nữ xuất thân từ gia đình truyền thống Đông y, đã luôn bốc thuốc an thần cũng như hỗ trợ nhiều về việc chăm sóc, ăn uống cho dì Mân từ khi dì ấy mất đi đứa con trai duy nhất. Cô chợt muốn quay về nhà để gặp mẹ mình, nỗi nhớ mẹ bị ép xuống từ bấy đến giờ vì cuốn theo biến cố xảy ra liên tục nay cồn cào trong lòng. Hân chào hỏi loa qua với Thơm rồi xách ba lô đi thẳng, thầm nghĩ ngày mai sẽ ghé sang thắp hương cho ông Hưng và hỏi thăm chòm xóm sau.

Mới đi được vài bước Hân lại nghe có tiếng gì đó đổ vỡ, cô nhìn lại thì thấy mấy chén rượu nhỏ đặt trên cái miếu thờ nhỏ bằng gỗ rơi xuống mặt đường. Hân thuận tay nhặt lấy mà đặt lại, song trong lòng cảm thấy có gì đó kỳ quặc đang diễn ra. Cô nhìn về phía căn nhà có miếu thờ ngay cổng trước, là nhà bà Hồng. Hân vốn không thân thiết với bà, mà bà Hồng cũng nổi tiếng lập dị, không gần gũi với ai trừ nhà ông Hưng – anh trai ruột. Sau khi được chia miếng đất từ bố mẹ, bà Hồng cất căn nhà đơn sơ có diện tích chưa đầy mười sáu mét vuông, rào cái sân lại rồi ở giá mà không lấy chồng. Bà cứ thoắt ẩn thoắt hiện ở cửa trước, trừ lúc đi chợ trao đổi đồ thì chẳng mấy ai thấy bà ở đâu trong thôn. Bấy giờ căn nhà bà Hồng đóng kín cửa im lìm đến đáng sợ, Hân ngó qua hàng rào thì thấy sân trước mọc cỏ dại um tùm, trông cứ như căn nhà đã bị bỏ hoang từ lâu. Nhiều câu hỏi thắc mắc dấy lên trong tâm trí song Hân đều gạt đi, từ khi lên thành phố cô đã học được việc bàng quan trước việc của người khác để tránh mang rắc rối vào mình. Hơn nữa có lẽ vì thấy bà Hồng già cả lại sống một mình, nên nhà anh Hoàng, Hải đón bà về bên đấy rồi thì sao. Bây giờ đi hỏi han lại thành ra tọc mạch. Nghĩ vậy, Hân phủi bớt mạng nhện bám trên miếu thờ gỗ rồi tiếp tục đi về nhà.

Con đường về nhà vẫn quen thuộc như thế, song chẳng hiểu sao cô lại thấy mình đi nhanh đến lạ. Ngày trước đi từ đầu thôn phải mất độ nửa tiếng mới đến nơi, bấy giờ chưa đến hai mươi phút Hân đã thấy chái nhà quen thuộc trước mắt. Cô bỗng sững lại, do dự và nhìn quanh. Vẫn rặng tre già mọc thành cụm ở gần ngã ba đường, vẫn hàng rào râm bụt nở hoa đỏ rực đằng xa, vẫn con mương cạn từ bao năm trước. Cảnh quan chưa đổi thay mấy, song trông chúng lại nhỏ bé hơn hẳn trong ký ức của Hân. Bước chân cô chậm rãi tiến về căn nhà nhỏ đã sinh trưởng hơn hai mươi năm, trên bức tường phía trước còn vằn vện những nét phấn dài Hân vẽ bậy năm mười tuổi, vườn rau cải ở sân bên đổi rồi, thay bằng mấy chậu hoa hồng đang trổ nụ. Cửa nhà khép hờ, tiếng radio vang khúc nhạc bolero đều đều, rè rè. Tầm giờ này trong thôn đã vãng dần, nhà nào khá giả mới bật đèn điện sáng choang, chứ đa phần người dân vẫn tận dụng đèn dầu cho đỡ tiền đóng điện. Nhà bà Thuỷ mẹ cô cũng thế, bên trong trừ chiếc radio chạy pin thì leo lét ánh đèn vàng mờ loang loáng, Hân nhắm mắt mường tượng về hồi ức thủa nhỏ, mẹ và cô ngồi trên phảng, đèn dầu đặt trên bậu cửa sổ. Màu trăng đêm rọi xuống trên mấy cục đá cuội, cô đặt một viên lên mu bàn tay rồi hất tung lên, nhặt tiếp một viên, lại một viên nữa. Khi đủ năm viên thì khoe với mẹ, bà Thuỷ cười tươi, vuốt tóc mai Hân khen ngợi cô khéo tay. Như thế đấy.

Mở mắt ra, Hân thấy bóng mẹ ngồi võng đung đưa trong nhà hắt trên nền bậc thang trông cô đơn đến lạ. Có tiếng ho khàn giọng phát ra, Hân vội bước vào hiên trước, giọng bà Thuỷ lầm rầm tâm sự cùng người chồng đã khuất, chủ đề đa phần là về cô. Hân mím môi cố kìm nước mắt. Cô về nhà rồi. Con về rồi, mẹ ơi!

“Mẹ ơi!” Hân đứng giữa sân, lớn giọng gọi mẹ. Cô không muốn để bà biết mình đã nghe được dòng tâm sự lo toan của mẹ dành cho mình. “Mẹ ơi con về rồi nè!”

Cánh cửa gỗ bật mở, bà Thuỷ tất tả chạy ra. Trông bà gầy hơn hẳn so với lần cuối cùng gặp mặt, đã ba năm trôi qua rồi, Hân lại hít sâu cố kìm cho mình không khóc. Sao mẹ  trở nên nhỏ yếu đến vậy, lưng bà vẫn luôn gù như thế, gương mặt khắc khổ hóp lại hai bên má trông buồn đến thế? Sao tới tận bây giờ cô mới nhận ra bàn tay mẹ vốn đã luôn xương xẩu như này? Bà Thuỷ mặc đồ bộ đã sờn, xem chừng cũng chẳng mấy để tâm nếu nó rách vài chỗ, đôi dép tổ ong nứt gãy gần nửa lết chân ra sân trước vội vã siết lấy con gái vào lòng.

“Con Hân! Sao về lúc này? Về tối trời vậy con? Sao mày không đánh điện trước để mẹ nhờ người ra bến xe đón, mày đi bộ về đấy à? Đã ăn uống gì chưa?” Bà Thuỷ vồn vã hỏi.

Hân trả lời từng câu một rồi đưa mẹ vào nhà, nội thất bài trí bên trong vẫn không thay đổi gì, cô tiện tay xách ấm nước đổ đầy ly thuỷ tinh ba màu cầm lên uống cạn. Cổ họng khô khốc được làm ẩm, Hân ngồi xuống ghế nghỉ mệt, ngồi kể huyên thuyên chuyện thị thành cho mẹ nghe. Mùi thuốc Nam bốc lên ngai ngái đưa Hân trở về ký ức thủa nhỏ, ba đi ruộng, mẹ ngồi nhà bốc thuốc cho chòm xóm. Chỉ chữa mấy bệnh vặt nên bà Thuỷ chưa bao giờ lấy tiền hoặc lấy rất ít, chủ yếu người ta khoẻ rồi thì mang đấu gạo, con gà, hoặc mấy bó rau tươi sang nhà đáp lễ. Bà Thuỷ có hẳn một tủ đựng thuốc như mấy quầy Đông y trên thành phố cô từng thấy, nghe bảo là của gia truyền mang theo từ thời con gái. Sân trước trồng rau, sân sau trồng thuốc. Mảng đất sau nhà đầy những cây thuốc, có vài loại bà nhờ người ra thị trấn mua về, cũng không đủ đầy lắm mà vừa vặn chữa cảm mạo, đau đầu mà thôi.

Chiếc võng được bà Thuỷ kê gần cửa trước, đấu với cái bàn nước là nơi bà tiếp khách, bốc thuốc. Bà thấy Hân về, nơi đáy mắt loang loáng nước, tất tả hâm đồ ăn, nấu nướng bắt cô ăn uống cho bằng được rồi lại đòi chạy sang hàng xóm mượn con gà đem luộc chấm muối tiêu, Hân cản mãi bà mới lội ra sau hè tìm vài cây rau ăn được, lục cạn tủ gạc-măng-rê tìm đồ nấu cho cô. Hân thở dài, mặc cho mẹ mình ngược xuôi tuỳ ý. Cô chợt nhận ra lúc mình không có nhà đồ đạc chẳng ngờ lại ít ỏi đến vậy, trong tủ gạc-măng-rê chẳng có tí thực phẩm dự trữ gì, chỉ nõn bịch khô cá. Vậy mà lần nào có dịp gửi đồ lên thành phố, bà toàn gửi cho Hân những thịt thà, rau củ tươi, rồi gạo, ngũ cốc… đủ cả.

Bữa cơm đơn giản được bà Thuỷ dọn lên cho cô là khô cá chiên giòn, chút rau xào và canh cải nấu tôm khô. Cơm trắng được nấu vội còn nhão, nhưng Hân lùa từng đũa lại thấy ngon vô cùng. Cái hương vị lâu rồi chưa nếm lại khiến đầu lưỡi cô run rẩy vì nỗi nhớ, nhớ thời gian hạnh phúc còn mẹ còn ba; nhớ lúc hai mẹ con nương tựa vào nhau, ngồi cạnh nhau ăn từng chén cơm dưới bài vị của ba. Cảm xúc tràn nơi đầu đũa, Hân liếm môi giả vờ như có bụi bay vào mắt để dụi đi giọt lệ nhỡ trào. Đương trò chuyện câu được câu mất với mẹ thì cô thoáng thấy có bóng người lấp ló ngoài sân trước, trông quen thuộc biết mấy.

Dì Mân. Lại là dì Mân.

Bà Mân đứng ngay chính giữa sân trước, nhìn lom lom vào nhà. Vẻ ngoài vẫn bù xù lếch thếch như vậy, song ánh mắt đã bớt phần loạn trí. Bà Thuỷ thấy người quen liền xới cơm cho vào chén chuẩn bị từ trước, ngoắc tay ra hiệu cho bà Mân vào nhà.

“Kìa mẹ. Dì Mân dì ấy…” Hân toan cản mẹ mình, cô nói lấp lửng. Song bà Mân đã đi vào trong nhà.

Cũng như việc mẹ Hân xới cơm khi thấy người quen, bà Mân đón lấy chén cơm như đã quen thuộc lắm rồi dùng muỗng xúc đồ ăn, nhai ngồm ngoàm. Thấy cảnh tượng ấy Hân mới nhận ra có lẽ mẹ mình chính là người đã luôn chăm sóc cho dì Mân suốt mấy năm qua.

Cô hỏi: “Con nhớ trước khi lên thành phố dì Mân vẫn ổn định lắm, mấy năm nay bộ đã xảy ra chuyện gì mà lại khiến dì ấy trở nên như thế?”

Bà Thuỷ nhìn người chị em bạn dì trong dáng vẻ xốc xếch tàn tạ, đáy mắt ánh lên nỗi xót thương vô hạn. Bà thở dài lấy khăn ướt lau vội vệt bẩn trên gương mặt bà Mân rồi thuật lại: “Trước đó tình hình của dì Mân mày đã không ổn rồi, do con không để ý đấy thôi. Dì ấy thường xuyên phải sử dụng thuốc an thần mới ngủ được, vì liều lượng dùng quá nhiều nên gây ra đoản trí. Dần dà thuốc mẹ sắc cho cũng không còn tác dụng mấy nữa, dì Mân mày mỗi lúc mỗi loạn thần hơn. Đêm đêm lại ra bờ hồ ngủ cạnh miếu thờ kêu tên thằng Đức, lúc lại chạy níu người này người kia trong làng gào thét rằng họ bắt con dì ấy, giết con dì ấy. Cũng đã hơn hai năm rồi, mẹ luôn phải sắc thuốc nặng hơn để dì ấy được an ổn tâm thần. Nhưng từ khi cái miếu bị dời đi thì…”

“Cái miếu bị dời à…? Không lẽ… bà Hồng dời cái miếu hả mẹ? Hồi chiều chạy về tới chỗ nhà ông Hưng con có thấy tự dưng trước nhà bà Hồng lại có miếu, cứ kỳ kỳ thì thế nào đấy, không dè…” Hân sực nhớ ra, nhà bà Hồng sát bên nhà ông Hưng vì cả hai ông bà là anh em ruột thịt, khi trước được bố mẹ chia đất như thế. Song trước nay nhà ông Hưng nổi tiếng không thờ thần Phật chỉ thờ ông bà tổ tiên, thế nên lúc chiều ngó qua thấy trước nhà bà Hồng có miếu thờ cô mới cảm thấy sai sai thế nào đó.

Kể từ khi thằng Đức gặp nạn ở hồ Vọng Nguyệt, chẳng mấy ai dám đến nơi ấy nữa. Bọn trẻ con bị cấm tiệt không được bén mảng tới gần hồ, người lớn thường kháo nhau cứ vào đêm rằm hay ngày trăng non là lại thấy lập loè lửa ma Trơi ở khu vực hồ Vọng Nguyệt. Cũng bởi vì thế nên họ mới lập miếu thờ, mong thằng Đức sống khôn thác thiêng đừng quấy quá nữa. Chuyện xảy ra cũng lâu nên Hân không nhớ nổi cái miếu ấy trông như thế nào, hoá ra đó lại là căn miếu nhỏ ngay trước nhà bà Hồng. Nhưng sao bà ấy lại làm thế?

“Ừ, bà ấy nằng nặc đòi dời miếu về tự thờ cúng tầm hai năm trước. Cả thôn đều khuyên không nên nhưng bà ấy chẳng chịu nghe ai. Hình như sau một trận ốm dậy, bà Hồng cứ lảm nhảm rằng bị mình thứ xú uế quấy quá, phải thờ miếu mới tai qua nạn khỏi. Thần trí bà ấy khi đó cũng không mấy ổn định, mẹ sắc cho vài thang thuốc mà vẫn chẳng thuyên giảm gì.” Bà Thuỷ nói.

“Kỳ lạ thật, nhà bà Hồng ông Hưng trước giờ đâu có tin mấy chuyện thờ cúng rồi quỷ ma quấy quá như kia. Thế là bà ấy để miếu thờ tới nay luôn hả mẹ, sao con thấy cái miếu ấy như bỏ hoang lâu lắm rồi.” Hân chép miệng, lầm rầm cảm thán.

“Bà Hồng ấy à…” Bà Thuỷ còn đang định nói tiếp chủ đề thì bỗng bên ngoài có người gọi lớn, giọng nghe hớt hải lắm.

Trừ dì Mân vẫn cắm cúi ăn khô cá chiên, hai mẹ con Hân ngó xem ai vừa đến nhà thì thấy là Thơm, vợ của Hải. Trông cô ta có vẻ hoảng loạn, mặt mày tái mét. Trên tay Thơm là đứa bé gái đang co giật ,nôn mửa không ngừng. Thơm chạy xộc vào nhà gào khóc: “Bác Thuỷ ơi cứu con cháu! Cứu con cháu với! Nó đang ăn đám bên nhà bỗng ngã vật ra như thế này, bác ơi làm sao đây cứu con cháu với!”

Bà Thuỷ bật dậy đón lấy đứa trẻ, vội vàng sai Hân chạy ra sân sau hái một nắm hoắc hương rồi đem giã nát. Đứa trẻ vẫn nôn mửa liên tục, khóc lóc đau đớn đến xót lòng. Hoắc hương pha với nước ra màu nhờn nhợt, Hân bưng vội chén thuốc mang lên để mẹ mình cho đứa trẻ uống. Thuốc vừa xuống họng, đứa bé lại nôn thốc ra. Bà Thuỷ kiên nhẫn bón thuốc cho con bé, cơn nôn mửa chỉ ngừng lại sau khi Hân giã nát nắm hoắc hương thứ hai. Đứa bé lả người đi, khóc rưng rức nhưng không còn nôn mửa nữa. Cơn nguy kịch vừa qua đi, bà Thuỷ đã bế xốc nó dậy rồi bảo với Thơm:

“Mau, đưa nó tới bệnh xá. Thuốc này chỉ giúp nó nôn sạch những thứ có thể gây ngộ độc ra ngoài thôi, vẫn phải đưa lên bệnh xá cho chóng để người ta kiểm tra. Nếu tạm ổn thì hai vợ chồng bây đưa thẳng lên Nhi Đồng đi.”

Thơm khóc lóc hết nước mắt, chân còn chưa kịp mang dép đã chạy theo bà Thuỷ đi về nhà lấy xe chở con lên bệnh xá. Hân đứng ở cổng nhìn theo, trong lòng cũng bớt vài phần hoảng hốt. Không tin được cô chỉ mới về lại quê hương chưa đến nửa ngày mà lại xảy ra quá nhiều chuyện đến vậy, Hân thầm khấn trời Phật cho đứa bé tai qua nạn khỏi. Khi bóng dáng tất tưởi của Thơm và bà Thuỷ khuất dần, Hân bỗng nghe thấy giọng cười của dì Mân vang lên khùng khục. Cô quay lại, chỉ thấy dì Mân đang lững thững bước ra ngoài, cái đầu dì ta ngoặc sang một bên, mắt trợn tròng đảo quanh. Khoé miệng dì Mân nhếch lên tạo thành hình trăng khuyết méo mó để lộ hàm răng vàng khè đã lâu không được chăm sóc, đôi chân trần lảo đảo đi ra khỏi sân trước, vừa cười vừa rên rỉ như tiếng khóc não nề.

“Trời trả báo! Trời trả báo! Đời cha ăn mặn đời con khát nước. Rồi chúng mày sớm chết cả thôi! Khặc… Khặc… hừ… hừ…!”